Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Cỏ hương bài hay cỏ hương lau là một chủng trong dòng cỏ Vetiver, là một loài cỏ sống lâu năm thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tên gọi vetiver có nguồn gốc từ tiếng Tamil. Các tài liệu cổ bằng tiếng Tamil có đề cập tới việc sử dụng cỏ vetiver cho các mục đích y học.
Tên Tiếng Việt: Cỏ hương bài, cỏ hương lau.
Tên khác: Akar wangi, Botha grass, Janur, Khas-khas, Khus-khus, Kusu-kusu, vetiver.
Tên khoa học: Chrysopogon zizanioides, Vetiveria zizanioides (L.) Nash ex Small., thuộc họ Lúa – Poaceae.
Cỏ hương bài loài cây thảo sống nhiều năm, thân rễ dày mang rễ dài, có mùi thơm. Thân cao đến 2m, mọc thành bụi đứng, gốc lớn, nhiều đốt, nhẵn. Lá hình dải hẹp, nhọn đầu, thẳng, cứng dài 40 - 90cm, nhẵn, mép ráp; bẹ lá dẹt, lưỡi bẹ dạng gờ mỏng. Cụm hoa là chuỳ ở ngọn, thẳng, dài 20 - 30cm, cuống chung lớn, phân nhánh nhiều; các nhánh xếp thành vòng, không đều nhau, nhẵn, ráp, có đốt. Bông nhỏ hẹp, nhọn, màu tím nhạt, có khi vàng nhạt; bông nhỏ không cuống lưỡng tính, bông nhỏ có cuống là bông đực. Quả thóc hơi dẹt bên nhiều hay ít.
Cỏ hương bài có nguồn gốc từ Ấn Độ, hiện nay nó đã được gieo trồng rộng khắp trong khu vực nhiệt đới. Các quốc gia và khu vực sản xuất chủ yếu là Haiti, Ấn Độ, Java, Réunion.
Cỏ hương bài phân bố ở nhiều nước nhiệt đới Phi châu và Á châu (Ấn Độ, Nam Trung Quốc, tới Inđônêxia). Ở nước ta, cây mọc phổ biến trên các đồi hoang khô, nơi nhiều nắng, trơ đất đá, xen lẫn với cây bụi thấp. Cũng được trồng ở Thái Bình, trên đất cát dọc bờ biển. Trồng vào tháng 2; thu hái chính vụ vào tháng 12, cũng thường được thu hoạch quanh năm.
Cỏ vetiver khá dễ trồng, dễ sống, chịu hạn tốt, ít bị sâu bệnh, thấm nước và giữ nước. Nó vừa ưa khô vừa ưa nước, trồng được ở bất kỳ loại đất nào, không kể độ màu mỡ. Cỏ được nhân giống bằng cụm rễ, cành giâm. Cây mọc thành bụi hay khóm lớn.
Rễ sản xuất tinh dầu chất lượng cao, thân gỗ và có mùi thơm nặng, được sử dụng làm hương liệu trong măng tây và đậu Hà Lan đóng hộp, đồ uống trái cây, kẹo siro, v.v. Nó cũng được sử dụng để làm xà phòng, nước hoa, mỹ phẩm, chất khử mùi, và các loại khác đồ vệ sinh cá nhân. Rễ được dùng làm rổ, quạt, chiếu, màn che mát. Rễ bột thể hiện đặc tính diệt côn trùng. Mặt khác, thân và lá già được sử dụng làm tấm lợp hoặc chế biến thành bột giấy thô.
Rễ - Radix Vetiveriae.
Rễ chứa tinh dầu tỷ lệ thay đổi từ 0,1 - 0,3% cho tới 1 - 2% tuỳ xuất xứ, thường là từ 0,5 - 1%. Tinh dầu chứa các terpen: 2 vetiven (2 và 3 vòng), alcol: 2 vetivenol (2 và 3 vòng), alcol methylic, aldehyd; furfurol; các acid vetivenic-benzoic dưới dạng ether của vetivenol.
Cỏ Vetiver đã được sử dụng trong y học cổ truyền ở Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka), Đông Nam Á (Malaysia, Indonesia, Thái Lan) và Tây Phi.
Các tài liệu cổ của người Tamil đề cập đến việc sử dụng cỏ vetiver cho các mục đích y tế.
Cỏ hương bài là loại cây có rễ dùng làm thuốc. Rễ có vị đắng và thơm, tính mát; có tác dụng hạ nhiệt, làm ra mồ hôi, kích thích, lợi tiêu hoá, gây trung tiện, lợi tiểu và điều kinh. Cỏ này được dùng để điều trị các vấn đề thần kinh và lưu thông máu. Ngoài ra, cỏ hương bài đôi khi được thoa trực tiếp lên da để giảm căng thẳng, chấn thương tâm lý, giảm sốc, trị chấy và xua đuổi côn trùng.
Tinh dầu thu được từ rễ được sử dụng trong y học như một chất khử trùng, tiêu độc, lợi tiểu, tiêu chảy, chất làm lạnh, chữa dạ dày, thuốc bổ, chống co thắt và chống nóng bụng. Bên cạnh đó, có thể hít cỏ hương bài như một “liệu pháp mùi hương” để chữa lo lắng, khó ngủ (chứng mất ngủ), đau khớp và cơ (thấp khớp). Thức uống kích thích được làm từ thân rễ tươi. Cây được dùng làm thuốc tẩy giun sán.
Chưa có tài liệu nghiên cứu cụ thể.
Cỏ hương bài thường được dùng ở các dạng bột, cồn thuốc, tinh dầu chiết xuất lỏng.
Dân gian thường dùng rễ cỏ Hương bài nấu nước gội đầu cho thơm, lại làm mượt tóc, cho lẫn vào tủ áo quần, tủ sách để có hương thơm, chống sâu bọ (gián). Cũng thường dùng đốt thay trầm tạo cảm giác nhẹ người. Dùng rễ nấu nước tắm trị được lở ngứa, sài ghẻ. Thông thường người ta dùng rễ cỏ Hương bài làm nguyên liệu cất lấy tinh dầu thơm, dùng trong hương liệu để cố định được các tinh dầu khác dễ bay hơi, làm bột, làm kem, làm xà phòng cao cấp.
Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ hãm uống với nhiều công dụng, chữa cảm sốt, bệnh về đường tiêu hoá và còn dùng tán bột đắp ngoài để giải nóng khi bị sốt, và dùng uống trong trị bệnh về gan. Tinh dầu cũng được sử dụng để làm tăng trương lực.
Ở Malaysia, người ta dùng rễ Hương bài làm thuốc đắp lên bụng phụ nữ sau khi đẻ.
Một số lưu ý bạn cần chú ý khi sử dụng cỏ hương bài:
Tinh dầu cỏ hương bài có tác dụng an thần và thư giãn sâu vì vậy không nên sử dụng trước khi lái xe, vận hành máy móc hoặc làm các công việc khác đòi hỏi sự tập trung.
Ngừng sử dụng cỏ hương bài nếu bạn gặp bất kỳ kích ứng, mẩn đỏ hoặc phản ứng nào.