Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Probenecid
Loại thuốc
Thuốc làm tăng đào thải acid uric
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén: 500 mg
Viên nén bao phim: 500 mg
Điều trị tăng acid uric huyết do bệnh gout (viêm khớp mạn tính và có tophi do gout) giai đoạn mạn tính.
Điều trị tăng acid uric huyết thứ phát do các nguyên nhân khác như sau khi dùng thuốc lợi tiểu thiazide, furosemide, acid ethacrynic, pyrazinamide hay ethambutol (trừ thứ phát do hóa trị liệu ung thư, xạ trị, bệnh ung thư).
Hỗ trợ liệu pháp kháng sinh để tăng và kéo dài nồng độ thuốc trong huyết tương ở một số trường hợp hạn chế, như phối hợp probenecid với amoxicillin để điều trị nhiễm lậu cầu nhạy cảm không tiết penicillinase và không biến chứng; với cefuroxime khi lậu cầu sản xuất penicillinase, với cefoxitin để điều trị ngoại trú viêm vùng chậu cấp, với penicillin G procaine trong điều trị ngoại trú giang mai thần kinh.
Dự phòng nhiễm độc thận do cidofovir.
Probenecid là một dẫn chất của sulfonamide, có tính chất bài tiết acid uric niệu và ức chế ống thận tiết một số acid hữu cơ yếu (penicillin và một vài kháng sinh beta-lactam).
Probenecid cạnh tranh ức chế tái hấp thu tích cực acid uric ở ống lượn gần nên làm tăng bài tiết acid uric vào nước tiểu và làm giảm nồng độ acid uric trong huyết tương.
Bằng cách làm giảm nồng độ acid uric huyết tương xuống dưới giới hạn hòa tan, probenecid có thể làm giảm hoặc ngăn chặn lắng đọng urate, hình thành tophi và các biến đổi mạn tính ở khớp; thúc đẩy làm tan các lắng đọng urate đã có, và sau vài tháng điều trị, số lần các cơn gout cấp giảm. Probenecid không có tác dụng giảm đau và chống viêm.
Probenecid được dùng để hỗ trợ liệu pháp kháng sinh, làm tăng nồng độ một số kháng sinh (penicillin, một số kháng sinh nhóm cephalosporin) trong máu, tăng thời gian bán thải và kéo dài thời gian tác dụng, do probenecid có tác dụng ức chế cạnh tranh tiết các acid hữu cơ yếu ở ống lượn gần và ống lượn xa.
Ngoài ra, probenecid còn ức chế vận chuyển nhiều thuốc và hợp chất nội sinh ở thận và/hoặc mật, cũng như vận chuyển vào và ra khỏi dịch não tủy.
Sau khi uống, probenecid được hấp thu nhanh và hoàn toàn. Nồng độ trong huyết tương từ 40 – 60 mcg/mL ức chế tối đa bài tiết các penicillin ở ống thận, nồng độ từ 100 – 200 mcg/mL có tác dụng tăng đào thải acid uric.
Probenecid liên kết mạnh với protein huyết tương (75 – 90%). Nồng độ trong dịch não tủy đạt khoảng 2% nồng độ thuốc trong huyết tương. Probenecid qua được nhau thai.
Probenecid chuyển hóa chậm ở gan. Các dẫn chất chuyển hóa của probenecid còn giữ được một phần hoạt tính làm tăng thải trừ acid uric.
Với liều 2 g, thời gian bán thải của probenecid dao động từ 4 – 17 giờ. Thời gian bán thải giảm khi giảm liều xuống 500 mg.
Một phần nhỏ probenecid được lọc qua cầu thận, phần lớn được bài tiết qua ống thận ở ống lượn gần theo cơ chế vận chuyển tích cực.
Probenecid được tái hấp thu gần như hoàn toàn ở ống lượn gần trong điều kiện pH nước tiểu acid. Ngược lại, kiềm hóa nước tiểu làm giảm tái hấp thu probenecid. Tuy điều này cũng làm tăng bài tiết thuốc, nhưng hiệu quả của probenecid không giảm đáng kể.
Hai ngày sau khi uống liều duy nhất 2 g, 5 – 11% liều dùng được bài xuất qua nước tiểu dưới dạng nguyên vẹn, 16 – 33% dưới dạng dẫn chất chuyển hóa monoacyl glucuronide, phần còn lại phân đều cho 4 dẫn chất chuyển hóa khác.
Tương tác với các thuốc khác:
Probenecid được dùng qua đường uống, trong bữa ăn để giảm kích ứng đường tiêu hóa.
Trong thời gian điều trị nên bù đủ dịch để đảm bảo bài niệu và nên duy trì pH nước tiểu kiềm.
Liều dùng của probenecid nên được hiệu chỉnh tùy theo đáp ứng và mức độ dung nạp thuốc của bệnh nhân.
Đối với trẻ < 6 tuổi, cần nghiền viên nén chứa probenecid sau đó trộn với sữa chua hoặc các dung dịch lỏng có đường.
Tăng acid uric máu trong bệnh gout:
Phối hợp với liệu pháp kháng sinh họ beta-lactam:
Dự phòng độc tính trên thận gây ra bởi cidofovir: Uống 2 g probenecid 3 giờ trước khi truyền cidofovir và lặp lại liều 1 g probenecid sau khi kết thúc truyền cidofovir 2 giờ và 8 giờ (tổng liều probenecid là 4 g).
Probenecid chỉ được chỉ định cho trẻ em từ 2 tuổi trở lên trong trường hợp phối hợp với liệu pháp kháng sinh họ beta-lactam.
Liều dùng cho trẻ từ 2 – 14 tuổi: Khởi đầu 25 mg/kg/ngày, chia làm 4 lần, sau đó tăng lên 40 mg/kg/ngày, chia làm 4 lần.
Trẻ em cân nặng trên 50 kg và trẻ em trên 15 tuổi có thể dùng liều của người lớn.
Bệnh nhân suy thận: Có thể cần tăng liều lượng.
Đau đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn, đau lợi, cảm giác chóng mặt, tăng số lần tiểu tiện.
Tiểu ra máu, khó tiểu, đau phần lưng dưới hoặc đau một bên, đỏ bừng mặt.
Phản ứng phản vệ kèm theo sốt, viêm da, ngứa, mày đay, ban da, rất hiếm khi gặp sốc phản vệ hoặc hội chứng Stevens - Johnson; hoại tử gan, hội chứng thận hư, thiếu máu bất sản, thiếu máu tán huyết ở bệnh nhân thiếu hụt enzyme G6PD.
Thận trọng khi dùng thuốc ở những bệnh nhân có tiền sử loét tiêu hóa.
Khi bắt đầu dùng probenecid, sỏi acid uric có thể hình thành do tăng nồng độ acid uric trong ống thận, dẫn đến tình trạng tiểu máu, cơn đau quặn thận, đau xương sườn - đốt sống.
Cần đảm bảo bù đủ lượng dịch (2 – 3 L/ngày) và kiềm hóa nước tiểu nếu nồng độ acid uric huyết tương ban đầu ở mức cao.
Không nên phối hợp với các kháng sinh nhóm penicillin cho bệnh nhân suy thận.
Cần ngừng sử dụng thuốc ngay nếu các phản ứng quá mẫn xuất hiện.
Bắt đầu dùng probenecid khi cơn gout cấp có sự thuyên giảm. Tần suất xuất hiện các cơn gout cấp có thể tăng lên trong 6 – 12 tháng đầu sử dụng thuốc. Tiếp tục dùng probenecid và colchicine hoặc các chất chống viêm khác để kiểm soát cơn cấp tính nếu xảy ra trong quá trình điều trị với probenecid.
Probenecid không có tác dụng trên bệnh nhân suy thận có ClCr < 30 mL/phút.
Probenecid có thể gây dương tính giả với xét nghiệm tìm glucose trong nước tiểu bằng phương pháp Benedict.
Nhà sản xuất cho rằng thuốc qua được nhau thai và xuất hiện trong máu cuống nhau thai. Các số liệu cho thấy không có sự liên quan nào giữa thuốc và dị tật bẩm sinh, cũng như chưa ghi nhận tác dụng có hại nào đến mẹ và con. Tuy vậy, chỉ dùng probenecid khi thật cần thiết.
Không có dữ liệu về khả năng bài tiết của probenecid vào sữa mẹ nên cần tránh cho trẻ bú mẹ khi mẹ đang được điều trị bằng probenecid.
Probenecid có thể gây đau đầu, cảm giác chóng mặt nên cần thận trọng với người lái xe hoặc vận hành máy móc.
Nếu quên dùng một liều thuốc, hãy uống càng sớm càng tốt khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và uống liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không uống gấp đôi liều đã quy định.
Quá liều và độc tính
Thông tin về quá liều của probenecid còn rất hạn chế. Trong một báo cáo quá liều probenecid, các triệu chứng nhiễm độc sau khi uống 47,5 g thuốc gồm có: Nôn, buồn nôn, chán ăn, run, động kinh cơn lớn, rối loạn thị giác, cơn gout cấp, hôn mê và suy hô hấp.
Cách xử lý khi quá liều
Cho uống than hoạt tính, gây nôn và rửa dạ dày để loại bỏ và ngăn cản hấp thu phần thuốc còn lưu lại trong đường tiêu hóa.
Chưa có phương pháp giải độc đặc hiệu, chủ yếu điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Nếu có triệu chứng kích thích thần kinh, có thể điều trị bằng barbiturate tác dụng ngắn.
Dược thư Quốc gia Việt Nam 2015
Drugs.com: https://www.drugs.com/monograph/probenecid.htm
Cục Quản lý Dược: https://drugbank.vn/thuoc/Auzitane&VD-29772-18