Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Nghệ là loại dược liệu phổ biến ở châu Á trong đó có Việt Nam. Không chỉ dùng làm gia vị, dược liệu này còn dùng trong kinh nguyệt không đều, bế kinh, ngực bụng trướng, đau tức, khó thở, sau khi sinh bị ứ huyết, kết cục gây đau bụng, hoặc bị chấn thương phần mềm gây ứ máu, dạ dày viêm loét, ung nhọt, ghẻ lở, phong thấp, tay chân đau nhức, vàng da.
Tên tiếng Việt: Nghệ (Thân rễ).
Tên khác: Nghệ vàng; Khương hoàng; Uất kim; Cohem; Co khản mỉn; Khinh lương.
Tên khoa học: Curcuma longa L.
Thuộc cây thân cỏ, cao 0,6 - 1 m. Thân rễ to, phân nhánh thành nhiều củ hình bầu dục, có ngấn, màu vàng sẫm đến đỏ cam, mùi thơm.
Bẹ lá ôm lấy nhau tạo thân giả, mọc thẳng từ thân rễ, gốc phiến lá thuôn hẹp, đầu hơi nhọn, dài 30 - 40 cm , rộng 10 – 15 cm, hai mặt nhẵn cùng màu xanh nhạt, mép lá nguyên uốn lượn.
Cụm hoa mọc từ giữa túm lá, hình trụ hoặc hình trứng, trên một cán mập dài đến 20 cm. Lá bắc rời, màu rất nhạt. Những hoa ở gốc cụm hoa là hoa sinh sản, màu lục hoặc trắng nhạt, những hoa gần ngọn hẹp hơn pha hồng ở đầu lá. Mỗi hoa gồm 3 lá đài dạng răng, không đều; tràng hình ống dài, cánh giữa dài hơn các cánh bên, màu vàng. Nhị mang bao phấn có cựa do một phần lồi ra của chung đới; nhị lép dài hơn bao phấn; cánh môi gần hình mắt chim, hơi chia 3 thuỳ. Bầu có lông.
Quả nang chia thành 3 ô, nứt bằng van. Hạt có áo.
Cây ra hoa vào khoảng từ tháng 3 - 5.
Phân bố
Có lẽ, Nghệ có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ngày nay, Nghệ là một cây trồng quen thuộc ở khắp các nước thuộc khu vực nhiệt đới, từ Nam Á đến Đông Nam Á và cả Đông Á.
Ở Việt Nam, Nghệ cũng là một cây trồng có ở nhiều nơi, từ vùng đồng bằng ven biển đến vùng núi cao trên 1500 m. Ở nhiều nơi, Nghệ đã trở thành loài mọc hoang ở các đồng ruộng, nương rẫy.
Nghệ là loài cây ưa ẩm, ưa sáng và chịu bóng, biên độ sinh thái rộng, thích nghi được với nhiều kiểu khí hậu khác nhau. Toàn bộ phần trên mặt đất cây Nghệ sẽ lụi đi vào mùa đông ở các tỉnh phía Bắc và mùa khô ở các tỉnh phía Nam. Sau đó, cây mọc lại vào giữa mùa xuân.
Thu hái và chế biến
Tiến hành thu hoạch Nghệ vào mùa đông khi cây lụi đi.
Muốn để lâu nên hấp Nghệ trong 6 - 12 giờ, để cho ráo nước rồi đem phơi hoặc sấy khô.
Trong y học cổ truyền, người ta chế biến Nghệ như sau:
Dạng thái phiến: Thái Nghệ thành phiến vát, phơi hay sấy khô. (Nếu là củ khô thì ngâm, rửa, ủ mềm rồi thái phiến và đem phơi khô trở lại.
Dạng sao với giấm: Nghệ (10 kg) tẩm đều với giấm (1,5 - 2 kg), để Nghệ hút hết giấm 30 phút, dùng lửa nhỏ sao khô hoặc luộc Nghệ với giấm, rồi thái phiến, phơi khô.
Dạng phiến sao vàng: Nghệ thái phiến được đem đi sao cho đến khi có màu vàng sẫm.
Dạng chế với phèn chua: 10 kg Nghệ thái phiến tẩm nước phèn chua (0,1 kg), ủ trong một giờ, rồi sao đến khi vàng.
Dạng chế với giấm, phèn chua: Nghệ (10 kg), giấm (1 kg) phèn chua (0,1 kg), nước vừa đủ. Đầu tiên, trộn đều Nghệ với giấm rồi thêm ít nước cháo nóng cộngdung dịch phèn chua, trộn đều, để 24 giờ. Sau đó đem luộc cho cạn, phơi khô vừa (còn khoảng 30% nước), ủ mềm thêm 2 ngày thái phiến 3 - 5 mm rồi phơi khô.
Thân rễ cây Nghệ.
Thân rễ Nghệ trồng ở Ấn Độ có các thành phần theo tỉ lệ: Nước 13,1%; protein 6,3%; chất béo 5,1%, chất vô cơ 3,5%; carbonhydrat 69,4% và caroten tính theo vitamin A 50 UI.
Cất kéo bằng hơi nước được 5,8% tinh dầu. Ở Việt Nam, trong củ Nghệ có hỗn hợp chất màu 3,5 – 4% và curcumin tinh khiết 1,5 – 2%. Trong tinh dầu lá Nghệ, có hơn 20 các chất nhóm monoterpen: Phellandren (24,5%), cineol (15,9%), p - cymen (13,2%) và p-pinen (8,9%).
Theo tài liệu Trung Quốc, Nghệ có turmerol, zingiberen, limonen, cineol, terpinen, linalool, borneol, D, p-phellandren, d-sabinen, zingeren, curcumin, parahydroxy cinnamoyl methan. P, p’-dihydroxycinnamoyl methan.
Các chất màu phenolic trong Nghệ chủ yếu là các dẫn chất của diarylheptan gồm curcumin (bisferuloyl – methan) (1) bis (4 hydroxy – cinnamoyl)-methan (2) và 4-hydroxycinnamoyl feruloyl methan (3).
Curcumin là một hỗn hợp gồm curcumin I là curcumin chính thức, chiếm khoảng 60% , curcumin II là monodesmethoxy curcumin chiếm 24% và curcumin III là bidesmethoxy curcumin chiếm 14%.
Tinh dầu Nghệ cũng chứa nhiều hợp chất terpen như alpha và beta pinen, camphen, limonen, terpinen, caryophyllen, linalool, borneol, isoborneol, camphor, eugenol, cineol curdion, curzerenon, và curcumen.
Hai hợp chất có tác dụng chống oxy hóa và chống viêm là 1,5 bis (4 hydroxy, 3 methoxy phenyl)-penta-(1E, 4E)-1,4–dien-3-on và 1-(4 hydroxy-3-methoxy phenyl-5-(4 hydroxy phenyl)-penta (1E, 4E)-1-4-dien-3-on.
Hai hợp chất phenol-sesquiterpen ceton có tác dụng ức chế men lipoxygenase là 2-methyl-6-(3-hydroxy-4-methyl-phenyl-2-hepten-4-on (turmeronol A) và 2 methyl-6-(2-hydroxy-4 methylphenyl) 2-hepten-4 on (turmeronol B).
Người ta cũng dựa vào thành phần hoá học các sesquiterpen trong củ Nghệ để phân loại các loại Nghệ.
Phân tích mẫu bằng phương pháp GC/MS (sắc ký khí kết hợp đo khối phổ) một số loại Nghệ thấy có 8 sesquiterpenoid là alphacurcumen, zingiberen, p-sesquiphellandren, ar – (+) tuimerol, o-turmeron, p-turmeron và germacol.
Gần đây còn có thêm các nghiên cứu về polysaccharid có hoạt tính sinh vật trong Nghệ, đáng lưu ý có ukonan A, ukonan B và ukonan C, cho tác dụng trên hệ thống lưới nội mô.
Chất màu trong củ nghệ có thể chiết xuất trực tiếp bằng nước kiềm, sau đó, tủa với acid.
Curcumin từ Nghệ có tác dụng ức chế u và có thể coi là một chất anticarcinogen có giá trị.
Thân rễ Nghệ (hay còn gọi là khương hoàng) có vị cay đắng, mùi thơm hắc, tính ấm, có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh, chỉ thống, tiêu mủ, giúp lên da non.
Rễ củ (hay còn gọi là uất kim) vị cay đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng hành khí, giải uất, lương huyết, phá ứ.
Do đó, thân rễ Nghệ được dùng trong trường hợp kinh nguyệt không đều, bế kinh, ngực bụng trướng đau tức, đau liên sườn dưới, khó thở, sau khi sinh con bị ứ huyết, kết cục gây đau bụng, bị chấn thương phần mềm gây ứ máu, dạ dày viêm loét, ung nhọt, ghẻ lở, phong thấp, tay chân đau nhức, vàng da.
Nghệ tươi đem giã nhỏ, lấy phần dịch bôi lên chỗ bị ung nhọt, viêm tấy, lở loét ngoài da hoặc các mụn mới khỏi để đỡ sẹo.
Curcumin trong Nghệ được dùng màu bao viên, cho ra màu vàng chanh sáng đẹp, bền vững; hoặc nhuộm vàng thực phẩm, nhuộm len, tơ, nhuộm da, giấy.
Nghệ còn được dùng chữa khí huyết ứ trệ, thổ huyết, đau vùng sườn, ra máu cam, tiểu ra máu.
Trong y học Ấn Độ, nghệ được sử dụng để kích thích tiêu hóa, bổ và lọc máu, chữa sốt rét, trộn với sữa nóng trị cảm lạnh. Nước ép nghệ tươi có khả năng chống ký sinh trùng trong nhiều bệnh ngoài da. Dùng bột thân rễ nghệ trộn cùng với vôi được dùng để chữa đau khớp. Cao nước thân rễ Nghệ được dùng cho bệnh nhân có các bệnh về mật.
Trong y học Trung Quốc, Nghệ vừa được dùng làm thuốc kích thích, thuốc bổ, thuốc giảm đau, thuốc cầm máu và giúp tăng cường chuyển hoá. Nghệ được chỉ định trong loét dạ dày, loét dạ dày có xuất huyết (phối hợp với các dược liệu khác), tiểu ra máu và các bệnh khác. Bột Nghệ dùng ngoài dạng bột giúp mau lành vết thương, chỗ bị trĩ, viêm mủ da và bệnh nấm tóc. Mỗi lần uống 8 – 10 g dạng thuốc sắc hoặc hãm.
Ở Nepal, Nghệ được dùng làm thuốc bổ, thuốc gây trung tiện. Hoặc dùng ngoài để chữa bong gân và bôi lên vết thương. Nước sắc thân rễ Nghệ dùng trong viêm tấy có mủ. Với một số bệnh ngoài da do giun sáng hoặc ký sinh trùng có thể dùng nước ép tươi để chữa. Nghệ cũng được xem là một thuốc chống dị ứng.
Ở Đông Nam Á, Nghệ được xem như loại thuốc bổ dạ dày, gây trung tiện, cầm máu, chữa vàng da và một số bệnh gan khác. Dùng Nghệ bôi ngoài da chữa ngứa, làm lành các vết thương nhỏ, vết sâu bọ cắn, phát ban trên da, đậu mùa.
Ngoài ra, Nghệ còn có tác dụng điều trị rối loạn kinh nguyệt, làm tăng tuần hoàn, làm tan cục máu đông, điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu, đau bụng, đau ngực và đau lưng, hoặc tiêu chảy, thấp khớp, ho, lao phổi. Nghệ cũng là thuốc chống co thắt, trị viêm lợi, diệt côn trùng, diệt nấm, diệt giun tròn.
Hoạt tính kháng viêm
Nghệ thể hiện hoạt tính ức chế chống viêm cấp và mạn tính trong các mô hình gây phù bàn chân và gây u hạt thực nghiệm trên chuột cống trắng, đồng thời có tác dụng gây teo tuyến ức chuột cống đực non. Trên mô hình thực nghiệm tinh dầu nghệ thể hiệnhoạt tính chống viêm khớp. Hoạt tính này có thể do ức chế các enzym trypsin và enzyme hyaluronidase.
Curcumin và các dẫn chất có hoạt tính kháng viêm, tác dụng này có thể do khả năng thu dọn những gốc oxy có liên quan đến quá trình viêm. Phân đoạn polysacharid chiết từ Nghệ tiêm phúc mạc chuột nhắt trắng thấy có tác dụng làm tăng khả năng thực bào trong thử nghiệm thanh thải carbon dạng keo.
Nghệ có hoạt tính chống loét dạ dày và loạn tiêu hoá
Thỏ uống cao nước hoặc cao methanol làm giảm tiết dịch vị và tăng lượng chất nhầy trong dịch vị. Kết quả cũng tương tự, khi cho chuột cống trắng uống cao cồn làm giảm tiết dịch vị và bảo vệ niêm mạc dạ dày tá tràng chống lại thương tổn do co thắt môn vị gây ra, hoặc stress do hạ nhiệt, giamgiữ, đói, dùng indomethacin, reserpin và mercaptamin, và những chất phá huỷ tế bào như methanol 80%, HCl 0,6 M, NaOH 0,2 M và NaCl 25%. Curcumin giúp cải thiện những tổn thương ở dạ dày nhờ kích thích tạo chất nhầy. Tuy vậy, khi tiêm phúc mạc hoặc uống curcumin lại gây loét dạ dày ở chuột cống trắng.
Natri curcuminat kích thích co bóp cơ trơn hồi tràng chuột lang không đặc hiệu. Cho thêm curcumin vào Clostridium perfringens phân lập từ ruột, và cho vào thức ăn của chuột cống trắng làm giảm sự tạo khí: Tiêm tĩnh mạch tinh dầu và natri curcuminat làm tăng tiết mật ở chó; ngoài ra, còn kích thích cơ túi mật.
Uống bột nghệ với lượng 500 mg x 4 lần/ngày trong 7 ngày cho thấy hiệu quả giảm rối loạn tiêu hóa do acid hoặc đầy hơi, giúp làm nhanh lành vết loét và giảm đau bụng.
Curcumin có tác dụng chống viêm
Một nghiên cứu ngắn hạn (trong 2 tuần) trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, curcumin hoặc phenylbutazon cho thấy tác dụng cải thiện đối với sự cứng cơ vào buổi sáng, sưng cáckhớp cũng như tăngthời gian đi bộ.
Tác dụng kháng khuẩn
Curcumin cũng cho thấy có khả năng ức chế in vitro sự phát triển của trực khuẩn lao ở Cmin 25 ng/ml, và ức chế Salmonella paratyphi ở nồng độ 50 ng/ml, ức chế tụ cầu vàng ở nồng độ 50 ng/ml.
Tinh dầu Nghệ ức chế trực khuẩn lao ở nồng độ 1 ng/ml, Bacillus mycoides và nấm Candida albicans ở nồng độ 1/160 và Bacillus subtilis ở nồng độ 1/250.
Turmeron trong tinh dầu ức chế in vitro các vi khuẩn và nấm, theo thứ tự hoạt tính giảm dần như sau: Bacillus subtilis, Candida albicans, Mycobacterium tuberculosis, Shigella dysenteriae, Diplococcus pneumoniae, Proteus vulgaris, Bacillus mycoides, Klebsiella sp., Salmonella typhi, Escherichia coli. Curcumin có tác dụng ức chế protease của HIV-1 và HIV-2, do đó thể hiện hoạt tính kháng virus. Artusrmeron có trong tinh dầu và dịch chiết hexan của lá nghệ có khả năng diệt ấu trùng muỗi Aedes aegyptii.
Viên bào chế kết hợp nghệ và bạch truật giúp làm giảm khá nhanh các cơn đau, giảm độ acid tự do trong dịch vị cũng như giảmcác triệu chứng rối loạn tiêu hoá, nhưng hình ảnh chụp X quang của vết loét vẫn chưa có nhiều biến chuyển.
Viên bào chế từ Nghệ, mai mực, hương phụ, cà độc dược có tác dụng giảm loét dạ dày trong mô hình gây loét do thắt môn vị,giảm độ acid dịch vị, và còn thể hiện cả tác dụng an thần, làm hết đau thượng vị, hết ợ chua, ợ hơi, hết cơn đau về đêm.
Cho thỏ tăng cholesterol máu thực nghiệm sử dụng nước sắc Nghệ đã làm giảm lượng cholesterol và lipid toàn phần trong máu rõ rệt, tỷ lệ beta/alpha lipoprotein cũng giảm có ý nghĩa so với đối chứng.
Kem Nghệ thể hiện khả năng điều trị bỏng thực nghiệm khi sử dụng cho thỏ, nhờ tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, kích thích tái tạo tổ chức và liền sẹo nhưng quá trình tăng sinh tế bào tại các tổ chức liên kết xuất hiện lại chậm nên thời gian lành vết bỏng kéo dài.
Nghệ khi dùng dạng phối hợp với một số dược liệu khác có tác dụng tăng cường tái tạo ở vết loét cổ tử cung, điều trị viêm đại tràng.
Tinh dầu Nghệ có tác dụng sát trùng yếu, đồng thời là thuốc kháng acid, liều nhỏ gây trung tiện, giúp dễ tiêu, kích thích ăn ngon; với liều cao có tác dụng chống co thắt, làm ức chế nhu động ruột.
Tác dụng lợi mật
Tinh dầu Nghệ có chứa p-tolylmethyl carbinol, nhờ đó mà có tác dụng lợi mật.
Cho chuột uống cao chiết dầu hoả của nghệ hàng ngày với liều 100 và 200 mg/kg trong 7 ngày, thấycó tác dụng ngừa thai với tỷ lê tương ứng 80% và 100%. Một chất tương tự curcumin chiết từ nghệ vàng đã biến đổi trong gan tạo thành chất có tác dụng tăng tiết mật.
Cao thân rễ nghệ có tác dụng chống tổn thương gan gây bởi carbon tetraclorid in vivo và in vitro. Cao nghệ có hiệu quả chống nấm tốt, đặc biệt là đối với các bệnh nấm da. Chuột dùng curcumin với liều 125 mg/kg làm tăng lưu lượng mật và liều 250 mg/kg làm tăng hàm lượng cholesterol và acid mật trong mật tiết ra. Curcumin cũng có tác dạng ức chế sự tan huyết gây bởi hydrogen peroxyd ở những nồng độ thấp.
Chuột cống trắng dùng curcumin thấy có tác dụng kích thích hoạt tính của men arylhydroxylase.
Chuột cái sau khi cắt bỏ hai buồng trứng được cho uống dịch chiết Nghệ rồi quan sát sự sừng hóa niêm mạc âm đạo cũng như khối lượng tử cung. Kết luận, Nghệ có tác dụng điều hoà chức năng sinh sản vì làm gia tăng sự sừng hoá âm đạo và tăng trọng lượng tử cung. Nghệ cũng gây tăng số lượng tế bào hồng cầu, chỉ số hematocrit và hemoglobin. Nghệ gây tăng bạch cầu với liều thấp, và giảm bạch cầu với liều cao.
Khảo sát độc tính cấp và mạn tính của cao cồn nghệ
Cho chuột nhắt trắng dùng các liều cấp tính 0,5 - 1,0 và 3 g/kg thể trọng hoặc liều mạn tính 100 mg/kg/ngày. Kết quả, trong không thấy có tỷ lệ chết có ý nghĩa so với đối chứng. Sau khi dùng cao Nghệ theo thời gian thử độc tính mạn, các chuột không tăng trọng lượng, số lượng hồng cầu và bạch cầu giảm. Khối lượng của cơ quan sinh dục, khả năng di chuyển và số lượng của tinh trùng tăng ở chuột nhắt đực uống cao Nghệ. Nghệ không gây đột biến và không gây ung thư trên chuột thử nghiệm.
Nghệ ức chế khả năng gây đột biến của các chất ngưng tụ từ khói thuốc lá và dịch chiết thuốc lá.
Ngày dùng 2 – 6 g dưới dạng bột hoặc thuốc sắc, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Bài thuốc chữa trúng phong bại liệt một bên
Nghệ, Rau sam, Bìm bìm, lá cây Dậu gió, Xương bồ, Huyết giác, Hồi hương, Đinh hương đồng lượng mỗi vị 12 g; Quế chi 20 g. Tất cả đem tán nhỏ, trộn với rượu và nước tiểu rồi dùng tay bóp đều.
Bài thuốc chữa chứng tích thành cục trong bụng hoặc do đờm tích hay huyết tụ gây đau
Nghệ, củ gấu đồng lượng, thêm ít cam thảo rồi đem tán bột làm viên.
Dùng 3 lát gừng, 3 lá tía tô, 2 g muối, sắc nước uống làm thang. Có thể uống thuốc với rượu vào lúc đói càng tốt.
Bài thuốc chữa đi tiểu ra máu
Nghệ (40 g) tán nhỏ, 1 nắm hành trắng, Đem sắc uống, chia 3 lần/ngày.
Bài thuốc chữa ra nhiều mồ hôi
Nghệ vàng, củ Sữa bò, Ngũ bội tử, tất cả đem tán nhỏ, trộn với ít nước, rồi quấn vào rốn.
Bài thuốc chữa uất mà sinh điên cuồng, kinh giản ở phụ nữ
Nghệ 280 g, phèn chua 120 g, tất cả đem tán nhỏ rồi viên với hồ, uống 12 g/lần với nước sôi.
Bài thuốc chữa lở ngứa, ghẻ
Nghệ, hạt Máu chó, hạt Củ đậu, tất cả đồng lượng trộn thêm ít diêm sinh rồi tán nhỏ, trộn tiếp với mỡ heo hay dầu mè rồi bôi ngoài da.
Bài thuốc chữa trĩ bị lở gây sưng đau
Nghệ và phèn xanh đem tán nhỏ, trộn với mật và mỡ heo rồi bôi.
Bài thuốc chữa trĩ dẫn đến viêm cơ, hoại tử và của viêm tắc động mạch (cao gia truyền)
Nghệ tươi 1000 g thái mỏng, lá phù dung tươi 100 g cho vào 1 lít dầu thực vật (mè, đậu phộng) đun sôi 1 giờ. Khi Nghệ khô thành màu nâu thì vớt ra, cho các vị Thiên niên kiện 30 g, Cốt toái bổ 30 g, mai Ba ba 30 g, Hồng đơn 20 g, Rết 20 g, Long não 10 g, Sáp ong 50 g, than tóc rối 20 g, đã giã nhỏ vào, đun thêm 1 giờ, vớt thuốc ra lọc, đun thêm 1 giờ nữa. Để nồi nguội đến 60oC thì thêm Long não, sáp ong, khuấy đều.
Bôi cao nghệ vào các búi trĩ và các chỗ hoại tử do viêm tắc động mạch rồi băng vô trùng.
Bài thuốc chữa sai khớp xương, bong gân
Củ nghệ, vỏ sò, vỏ Núc nác, Gừng sống, Quế, Hồi hương, Đinh hương, lá Canh châu, lá Đau xương, lá Thầu dầu tía, lá Náng, lá Kim cang, lá Mua, mủ Xương rồng bà, lá Thầu dầu tía, lá Náng, lá Kim cang, lá Mua, Huyết giác, hạt Chấp, hạt Máu chó, lá Bưởi bung, lá Tầm gửi cây khế (nếu có bị sưng cơ thì không dùng lá Đau xương nhưng thêm giấm), tất cả đem giã nát, sao lên rồi chườm nóng.
Bài thuốc chữa huyết ứ, gây đau vùng tim
Đem Nghệ đốt tồn tính rồi tán bột, mỗi lần lấy 4 g hòa với giấm thanh đun sôi hay nước tiểu trẻ em làm thang.
Bài thuốc chữa viêm loét dạ dày tá tràng, đau vùng dạ dày, ợ hơi, ợ chua
Nghệ 10 g, Trần bì 12 g, Khổ sâm 12 g, Hương phụ 10 g, Bồ công anh 10 g, Ngải cứu 8 g, tất cả đem tán bột, ngày uống 10 – 20 g, chia 2 lần.
Nghệ 12 g, Đậu đen sao 20 g, Sâm bố chính 12 g, Hoài sơn 12 g, Thổ phục linh 10 g, Trần bì 10 g, mật ong hoặc đường 10 g, tất cả đem tán mịn hoàn thành viên, ngày uống 10 – 20 g.
Nghệ, mộc hương nam, mật ong, lá khôi, tất cả đem tán bột, làm thành viên nén uống.
Bài thuốc chữa viêm gan, suy gan, vàng da
Nghệ 5 g, Bồ bồ 10 g, Chi tử 5 g, râu Bắp 5 g, bào chế thành sirô hoặc cốm để uống.
Nghệ 6 – 12 g, Nga truật, Hương phụ, Quất (quả non), đem tán bột, trộn với mật ong làm viên uống.
Nghệ 2 g, Dành dành 2 g, Hậu phác nam 2 g, tất cả đem tán mịn kết hợp với cao nước của Nhọ nồi 2 g, Rau má 4 g, Hoàng bá nam 3g, Nhân trần hoặc Bồ bồ 3 g, Sài hồ nam 2 g. Làm thành viên hoàn, ngày uống 5 g x 2 lần/ngày.
Bài thuốc phòng và chữa bệnh sau khi đẻ
Nướng Nghệ rồi ăn hoặc uống với rượu.
Hoặc Nghệ tán bột uống với dấm.
Bài thuốc chữa chảy máu cam
Chiêu 4 – 6 g Nghệ với nước rồi uống.
Bài thuốc chữa đi tiểu ra máu hay đái buốt
Sắc Nghệ và hành rồi uống.
Bài thuốc điên cuồng, tức bực lo sợ
Nghệ 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ rồi viên với hồ thành hạt ngô, uống mỗi lần 50 viên (có thể uống môi lần 4 – 8 g, ngày 2 lần).
Bài thuốc chữa lên cơn suyễn khó thở
Nghệ tươi 100 g, giã nát, hoà với đổng tiện, vắt lấy nước cốt uống.
Kem chữa bỏng từ Nghệ
Cao nghệ 5 ml (chiết bằng cồn 90%), vaselin 43 g, dầu lạc 20 ml, Na borat 4 g, lanolin 1 g, nước cất 30 ml, trộn đều.
Cao dán nhọt
Nghệ 60 g, củ ráy 80 g, dầu vừng 80 g, nhựa thông 40 g, sáp ong 40 g. Củ ráy gọt vỏ, giã cùng với Nghệ rồi nấu nhừ với nhựa thông, dầu mè và sáp ong. Lọc để nguội, phết lên giấy dán vào mụn nhọt.
Bài thuốc chữa sỏi mật (Đàm đạo bài thạch thang)
Nghệ 12 g, Kim tiền thảo 40 g; Mộc hương, Nhân trần, Chỉ xác, Đại hoàng, đồng lượng mỗi vị 12 g, sắc uống ngày một thang.
Bài thuốc chữa viêm gan virus cấp tính
Nghệ 12 g; Nhân trần, Bồ công anh, rễ Cỏ tranh, đồng lượng mỗi vị 40 g; Chi tử 16 g, Đại hoàng sao 12 g, Hoàng liên 8 g, tất cả đem sắc uống, 1 thang/ngày.
Bài thuốc chữa kinh nguyệt không đều
Nghệ 8 g; Ích mẫu 16 g, Kê huyết đằng 16 g, Sinh địa 12 g; Xuyên khung 8 g, đào nhân 8 g, sắc uống.
Bài thuốc chữa đau bụng kinh
Nghệ 12 g, Ích mẫu 20 g; Sinh địa 16 g, Huyền sâm 16 g, Địa cốt bì 12 g; Đào nhân 8 g, Hương phụ 8 g, Thanh bì 8 g. Sắc uống trong ngày.
Nghệ 8 g, Ích mẫu 16 g; Đào nhân, Xuyên khung, Ngưu tất, Hương phụ, đồng lượng mỗi vị 8 g, sắc uống trong ngày.
Chưa có lưu ý.