Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Hạ khô thảo có tên khoa học là Prunella vulgaris L. thuộc họ Lamiaceae (Hoa môi). Công dụng: Chữa lậu, tràng nhạc, lao hạch, viêm họng, ho, xích bạch đới, viêm gan, viêm tử cung, đái đường, mụn nhọt, cao huyết áp, sưng vú (cả cây sắc uống).
Tên Tiếng Việt: Tịch cú; Nãi đông; Yến diện; Mạch tuệ hạ khô thảo; Mạch hạ khô; Thiết tuyến hạ khô; Thiết sắc thảo; Bổng trụ đầu hoa.
Tên khoa học: Prunella vulgaris L. Họ Lamiaceae (Hoa môi).
Hạ khô thảo là một cây sống dai có thân vuông màu hơi tím đỏ, lá mọc đối, hình trứng hay hình mác dài, mép nguyên hoặc hơi có răng cưa, có ít lông ở thân và lá.
Cụm hoa mọc ở đầu cành giống như bông do nhiều hoa có cuống ngắn mọc vòng, mỗi vòng có 5 – 6 hoa. Đài hoa có 2 môi, môi trên có 3 răng, môi dưới có 2 răng, hình 3 cạnh. Cánh hoa màu tím nhạt hình môi, môi trên như cái mũ, môi dưới xẻ ba, thùy giữa rộng hơn. Nhị 2 dài, 2 ngắn, đều thò ra khỏi tràng. Bầu có bốn ngăn. Vòi nhỏ dài. Quả nhỏ cứng.
Hạ khô thảo là loài cây của các vùng Âu, Á ôn đới, phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và nhiều nước châu Âu.
Ở Việt Nam, cây này hiện nay mới phát hiện được ở Sapa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Hà Giang vào các tháng 4, 5, 6 rất nhiều, sang đến tháng 8 một số đã lụi đi. Hạ khô thảo đã được khai thác, trước đây phải nhập của Trung Quốc. Cây hạ khô thảo mọc nơi sáng ẩm, thường tập trung thành đám nhỏ, trữ lượng không nhiều. Cây hạ khô thảo có thể nhân giống bằng hạt. Sau khi trồng 75 – 90 ngày, cây ra hoa.
Hiện nay nhiều nơi như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh nói có hạ khô thảo nhưng chưa được xác minh. Vào mùa hạ, khi một số quả đã chín thì hái cành mang hoa và quả phơi hay sấy khô. Có người dùng cả bộ phận trên mặt đất hái về phơi hay sấy khô để dùng.
Cây Hạ khô thảo
Bông hoa – Spica Prunellae, tức phần cụm hoa trên cành mang lá, dài không quá 15cm, tính từ ngọn hoa trở xuống thường gọi là Hạ khô thảo. Ở Châu Âu, người ta dùng toàn cây.
Khi nào hoa ngả sang màu nâu, thì thu hái phần ngọn cây mang hoa, mang về phơi hoặc sấy đến khô.
Hiện nay hãy còn ít tài liệu nghiên cứu về cây này. Mới chỉ biết rằng cành mang hoa và quả chứa chừng 3.5% muối vô cơ tan trong nước. Trong số muối vô cơ này, là kali clorua, ngoài ra còn thấy một chất có tính chất ancaloit, acid ursolic.
Tính vị theo đông y: Vị đắng, cay, tính hàn, không độc, vào hai kinh can và đởm. Hạ khô thảo có tác dụng thanh can hỏa, tán uất kết, tiêu ứ sáng mất, làm thuốc chữa loa lịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ.
Cây Hạ khô thảo dùng chữa loa lịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ
Tác dụng dược lý
Cửu Bảo, Điền Tinh Quang và Đào Thanh Cát (1940, Hòa hán dược dụng thực vật) đã thí nghiệm lấy các muối vô cơ trong nước sắc hạ khô thảo, chế thành thuốc tiêm, tiêm tĩnh mạch thỏ, lập tức thấy huyết áp hạ xuống, vận động hô hấp tăng lên, tác dụng lợi tiểu rõ rệt như các muối kali khác, do đó suy ra rằng sở dĩ hạ khô thảo có các dụng là do lượng muối kali khá cao. Hạ khô thảo có tác dụng hạ huyết áp lâu dài trên bệnh nhân và làm hết các triệu chứng khó chịu của bệnh cao huyết áp.
Người dân Trung Quốc dùng nấu nước uống thay nước trà.
Tài liệu cổ nói vị hạ khô thảo có tác dụng chữa loa lịch (lở loét, tràng nhạc, mụn nhọt, dò ở trên đầu) rất có công hiệu.
Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân có kể một trường hợp ông dùng chữa bệnh nhức mắt rất công hiệu như sau:
Người con trai đau ở trong con người, nhức cả bên quãng xương đầu lông mày và sưng đau thêm nửa đầu, dùng Hoàng liên nhỏ vào lại càng đau thêm, uống các thứ thuốc khác cũng đều không công hiệu, liền dùng ngải cứu ở các huyệt quyết âm, thiếu dương tức thời khỏi đau ngay, nhưng cách đó chỉ nửa ngày lại đau, cứ nhùng nhằng như thế tới hơn một tháng, liền dùng hạ khô thảo 2 lạng (80g), hương phụ 80 gam, cam thảo 16 gam, cùng tán bột mịn, ngày uống 6 gam, uống khỏi miệng đau dứt ngay, dùng liên tục 4 - 5 ngày bệnh khỏi hẳn.
Công dụng
Hạ khô thảo thường dùng trị đau mắt hay chảy nước mắt, tràng nhạc (lao hạch), bướu cổ, sưng vú, viêm tử cung và âm hô, gan mật nhiệt, huyết áp cao, viêm thần kinh da, lở ngứa, mụn nhọt, hắc lào, vẩy nến, tiểu tiện ít không thông. Ngày dùng 6 – 12g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Ở Trung Quốc, người dân thường trị đái buốt, lao hạch, đau mắt phong sưng đỏ; ngoài ra, hạ khô thảo cũng trị được cao huyết áp, giữ mức hạ áp được lâu, giảm bớt bệnh buồn rầu chủ quan.
Ở Pháp, người ta dùng uống trong trị đái đường, dùng ngoài chữa mụn nhọt, đau thắt, viêm họng, viêm miệng.
Những bài thuốc dùng hạ khô thảo trong nhân dân:
Chữa tràng nhạc, mã đao: Hạ khô thảo 5 lạng (200g) đun lấy nước đặc uống, uống trước khi ăn cơm 2 giờ. (Bài thuốc trích trong sách “Tiết thị ngoại khoa - bản thảo cương mục”). Cũng bệnh trên, có thể dùng hạ khô thảo, hương phụ, bối mẫu, viên chí cùng đun lấy nước đặc uống rất hay, không nên coi thường (sách “Kinh nghiệm phương - bản thảo cương mục”).
Chữa xích bạch đới: Hạ khô thảo tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước cơm (sách ‘Từ thị phương’).
Chữa tràng nhạc (loa lịch): Hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.
Thông tiểu tiện: Hạ khô thảo 8g, hương phụ tử 2g, cam thảo 1g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia ra 3 lần uống trong ngày.
Bị đánh hay bị thương dùng hạ khô thảo tươi, tán nhỏ đắp vào vết thương.
Có thể dùng chữa bệnh cao huyết áp với liều 6 - 15g dưới dạng thuốc sắc.
Chữa tràng nhạc, lở loét: Hạ khô thảo 200g sắc đặc, uống trước bữa ăn 2 giờ. Hoặc dùng hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Hạ khô thảo chữa tràng nhạc, lở loét
Thông tiểu tiện: Hạ khô thảo 8g, hương phụ 2g, cam thảo 1g, nước 300ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa cao huyết áp: Hạ khô thảo rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ 40g, chia 2 lần uống trong ngày, sau hai bữa cơm. Uống liên tục 10 ngày, nghỉ 7 ngày, rồi uống tiếp tục như thế từ 2 – 4 đợt, tùy bệnh nặng nhẹ. Hoặc dùng hạ khô thảo, bồ công anh, hạt muồng ngủ sao, mỗi vị 20g. Hoa cúc, lá mã đề, mỗi vị 12g, sắc uống.
Hiện nay một số người buôn thuốc nam ở ta và thuốc bắc có thu mua và bán một vị mang tên là hạ khô thảo hay hạ khô thảo nam, hoặc hạ khô thảo Nghệ An hoặc cây cải trời, cải ma.
Cây này được xác định là Blumea suhcapitata DC thuộc họ Cúc Asteraceae vậy hoàn toàn không giống cây hạ khô thảo ở Sapa và trước đây ta vẫn nhập của Trung Quốc. Hiện nay Cải trời được xác định tên là Blumea lacera (Burm.f.) DC.
Theo Cayla (Journ. Agric. Trop. 9, 1909, 253) cây cải trời có tinh dầu màu vàng, mùi nồng vì chứa camphora nhiều hơn ở cây đại bi {Blumea balsamifera).
Theo Baslas K. K. và Deshapande s. s. tinh dầu cải trời có 66% cineol, 10% d- lenchon và 6% citral.
Tuy nhiên, trong thực tế chữa bệnh lâu đời của nhiều ông lang, vị thuốc này cũng chữa có kết quả nhiều trường hợp bệnh ngoài da.
Từ điển cây thuốc Việt nam – Võ Văn Chi.
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Tập 1).
Tracuuduoclieu.vn: https://tracuuduoclieu.vn/ha-kho-thao.html