Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Xa xưa, Mộc hoa trắng đã được biết đến là vị thuốc chữa bệnh lỵ hiệu quả. Ngoài tác dụng đó, ngày nay một số nghiên cứu khoa học cho thấy vị thuốc này còn có tác dụng hữu hiệu khác trong các bệnh lý đái tháo đường, ung thư, chống có thắt, chống oxy hóa,…
Mộc hoa trắng hay còn được gọi với những cái tên như Mức hoa trắng, Mộc vài (Tày), Mức lá to, Thừng mực lá to, Xí chào (Kho).
Tên khoa học là Holarrhena pubescens Wall. ex G. Don, họ Apocynaceae (Trúc đào).
Cây nhỏ hoặc to tùy vào đặc điểm đất, môi trường sinh sống, cây có thể cao tới 12m. Cành non nhẵn hoặc có bám lông màu nâu đỏ, trên mặt thấy có nhiều bì khổng trắng rõ. Sẹo lá còn sót lại thường nổi lên.
Lá mọc đối xứng gần như không có cuống, không có lá kèm, mép không xẻ, hình bầu dục đầu tù hay nhọn, đáy lá tròn hoặc nhọn, dài từ 12 - 15cm, rộng từ 4 - 8cm. Mặt trên lá bóng, màu xanh lục nhạt.
Hoa trắng mọc thành kiểu xim hình ngù ở kẻ lá hay đầu cành.
Quả dạng đại màu nâu có vân dọc hơi hình cung dài 15 - 30cm, rộng 5 - 7mm. Rất nhiều hạt dài 10 - 20 mm, rộng 22,5mm, dày 1 - 1,5mm màu nâu nhạt, đáy tròn, đầu hơi hẹp lõm một mặt, trên mặt có một đường còn màu trắng hơi nhạt. Chùm lông của hạt màu hơi hung, dài 2 - 4,5cm. Lá mầm gấp nhiều lần.
Mùa hoa nở: Tháng 3 - 7, mùa quả tháng 6-12.
Mọc khắp nơi ở Việt Nam, tại miền Bắc có ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình và nhiều tỉnh khác.
Ở nước ngoài thì có mọc ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Malaysia.
Thu hái khi quả chín già, thời điểm thích hợp là vào mùa Thu – Đông.
Chế biến: Đem phơi khô hoặc dùng tươi.
Vỏ hạt, thân.
Từ vỏ hạt cây Mộc hoa trắng người ta đã chiết xuất các alkaloid chủ yếu là conesin.
Theo Ciaus J. F. Mhaskar trong hạt Mộc hoa trắng có từ 36-40% dầu và 0,025% alkaloid.
Chữa lỵ do đơn bào amip.
Trị kiết lỵ, tăng cường chức năng tiêu hóa, điều trị và giảm nguy cơ mắc bệnh viêm đại tràng.
Chất conesin rất ít độc. Với liều cao, tác dụng của nó gần giống morphin, gây ức chế đối với trung tâm hô hấp. Nếu tiêm, nó gây tê tại chỗ nhưng lại kèm theo hiện tượng hoại thư do đó không dùng trong gây tê.
Conesin bài tiết một phần qua phân, một phần qua nước tiểu. Nó gây hạ huyết áp và làm tim đập chậm.
Conesin kích thích sự co bóp ruột và tử cung.
Theo Janot M. M. và Cavier R. (1949. Ann. Pharmaceut. Frane: 549-552) conesin clohydrat, có tác dụng trừ giun đối với chuột bạch.
Trên lâm sàng, người ta dùng conesin clohydrat hay bromhydrat chữa lỵ amip. Hiệu lực như emetin nhưng lại hơn emetin ở chỗ ít độc và tiện dùng. Nó tác dụng cả đối với thể kén và amip, còn emetin chỉ tác dụng đối với amip. Hiện tượng không đáp ứng thuốc rất ít hoặc không đáng kể.
Hạt và vỏ được dùng làm thuốc chữa lỵ amip. Thường dùng dưới dạng bột, cồn thuốc hoặc cao lỏng.
Bột vỏ ngày uống 10g.
Bột hạt ngày uống 3 - 6g.
Cao lỏng 1/1 ngày uống 1 - 3g.
Cồn hạt (1/5) ngày uống 2 - 6g.
Bài thuốc chữa kiết lỵ
Vỏ cây Mộc hoa trắng với lượng vừa đủ, phơi khô hoặc sấy khô rồi đi tán thành bột mịn. Sắc với nước hoặc hòa với nước sôi ấm uống mỗi ngày liều từ 10 – 15g. Duy trì liên tục và đều đặn đến khi các triệu chứng của bệnh thuyên giảm.
Bài thuốc chữa viêm đại tràng
Bài 1: Vỏ cây Mộc hoa trắng với lượng đủ dùng, phơi khô, tán thành bột mịn. Mỗi ngày dùng với liều 10g, cho nước vào sắc chung để uống, uống ngay khi còn ấm.
Bài 2: Hạt của Mộc hoa trắng đem đi phơi khô rồi tán bột mịn, mỗi ngày dùng khoảng từ 10 – 15g, cho nước vào sắc, nên sử dụng lúc còn ấm, uống trong ngày. Mỗi ngày có thể uống nhiều lần và cần duy trì trong thời gian dài.
Nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Hết sức thận trọng khi sử dụng cho trẻ nhỏ.
Tránh dùng cho phụ nữ mang thai hoặc đang cho bé bú nếu bác sĩ chưa cho chép.