Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Nó được trồng để lấy hoa thơm. Những bông hoa cũng được sử dụng để làm nước hoa và ướp trà. Nhài là quốc hoa của các nước Philippines (sampaguita), Indonesia, (melati putih), Pakistan và Tunisia.
Tên Tiếng Việt: Nhài, Lài, Mạt lị.
Tên khác: Mạt lợi; Mạt lị; Nhài kép; Nhài đơn; Lài
Tên khoa học: Jasminum sambac (L.) Aiton, thuộc Họ Nhài – Oleaceae. Còn được gọi là Nyctanthes sambac (L.)
Cây nhài là loài cây nhỡ, nửa bò, cao tới 0,5 – 3 m (1,6 – 9,8 ft) với những chiếc lá sáng màu quyến rũ tạo ra những bông hoa có hương thơm ngọt ngào màu trắng rất hấp dẫn vào mùa nóng. Cây có nhiều cành mọc xòe ra, cành cây non mảnh và lông mềm trải ra. Lá hình trái xoan – bầu dục, nhọn ở đầu và ở phía cuống, kích thước dài từ 30 – 70 mm, rộng từ 20 – 35 mm, bóng ở cả hai mặt, khe các gân phụ ở mặt dưới có lông. Ở những gân bên lá có các đường kẻ, mỗi bên 5 – 6 gân lồi ở dưới, cong đột ngột ở mép, gân con thành mạng lưới.
Hoa được tạo thành cụm từ 3 – 12 cụm ở cuối cành, đường kính khoảng 2 – 3 cm với 5 – 9 thùy. Cụm hoa ở đầu ngọn cành và mọc thưa, ít hoa. Hoa nhài màu trắng và có mùi thơm ngát. Lá bắc hình sợi chỉ. Đài hoa có lông và ống dạng chuông, 10 thùy hình dải. Tràng có ống khỏe, 10 thùy hình bầu dục trái xoan. Nhị hình trái xoan, có trung đới rộng, mũi nhọn ngắn và tù. Bầu cụt; đầu ngụy không vượt quá các thùy của đài hay vượt quá các nhị.
Quả gồm 1 – 2 lá noãn, hình cầu, đường kính 6 mm, màu đen, bao bọc bởi đài phủ lên.
Cây nhài thường được gọi là Arabian Jasmine trong tiếng Anh, mặc dù nó không có nguồn gốc từ Ả Rập. Loại cây này có nguồn gốc ở Tây Nam và Nam Á, chủ yếu là Philippines, Ấn Độ, Myanmar và Sri Lanka (Lasekana và Lasekan, 2012). Jasminum sambac và các loài khác của chi lan sang Trung Đông, Ba Tư, và sau đó là Châu Âu vào thế kỷ thứ mười tám. Hiện nay nó được trồng gần như khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Cây nhài là loài cây ưa sáng, được trồng nguyên sản ở Ấn Độ. Ở Ấn Độ, nó rất phổ biến và được gọi là Mogra. Nó là quốc hoa của Philippines, nơi nó được gọi là sampaguita, cũng như là một trong ba quốc hoa của Indonesia, nơi nó được gọi là melati putih.
Tại Việt Nam, nhài được trồng ở nhiều nơi, như: Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh. Nó được trồng rộng rãi vì có hoa thơm ngọt ngào hấp dẫn. Nó được sử dụng trong các khu vườn như một loại cây cảnh. Hoa cũng được sử dụng để làm nước hoa và pha trà hay để làm thơm thức ăn.
Mùa ra hoa của nhài từ tháng 5 – 7 và mùa quả từ tháng 7 – 9. Loài này có nhiều biến động về mặt nhân giống thực vật. Chỉ có một số giống có thể được tái sản xuất bằng hạt. Sau khi được gieo trồng, nó không mang hạt và cây được tái sản xuất chỉ bằng cách cắt, tách lớp, tách cành và các phương pháp nhân giống vô tính khác.
Bộ phận sử dụng của nhài, gồm: Hoa, lá và rễ - Flos, Folium et Radix Jasmini.
Người dân thường thu hoạch rễ vào mùa thu đông, đem rửa sạch, thái nhỏ, phơi hay sấy khô. Lá thu hái quanh năm. Hoa thu hái vào hè thu, khi hoa mới nở, có thể dùng phơi khô hoặc tươi đều được.
Trong hoa nhài có một chất béo thơm, hàm lượng 0.08%. Thành phần chủ yếu của chất béo này là parafin, ester formic acetic-benzoiclinalyl và este anthranylic metyl và indol.
Jasminum sambac chứa axit dotriacontanoic, dotriacontanol, axit oleanolic, daucosterol, hesperidin, và [+] - jasminoids A, B, C, D trong rễ của nó. Lá chứa flavonoid: RutinRutin, quercetin và isoquercetin, flavonoid rhamnoglycosides cũng như α-amyrin và β-sitosterol. Một họ peptide cysteine -rich peptide thực vật mới có tên là jasmintides đã được phân lập từ loài thực vật này.
Theo đông y, hoa và lá nhài có vị cay và ngọt, tính mát; có tác dụng trấn thống, thanh nhiệt giải biểu, lợi thấp.
Rễ nhài cũng có vị cay ngọt, tính mát, tuy nhiên hơi có độc; có tác dụng trấn thống, gây tê, an thần.
Trong sách cổ và Bản thảo cương mục có ghi “Muốn làm cho người mê đi trong một ngày, cho người đó uống rượu có chừng 3 cm rễ cây nhài, nếu muốn cho mê trong hai ngày thì cho uống gấp hai nghĩa là đoạn rễ dài 6 cm”.
Trong Hiện đại thực dụng trung dược (1957) có ghi “Rễ nhài có tác dụng ma túy (mê) ngâm rượu uống sẽ hôn mê bất tỉnh.
Hoa và lá nhài dùng trị ngoại cảm phát sốt, đau bụng tiêu chảy, lỵ, mụn nhọt độc. Hoa sắc nước dùng rửa mặt, chữa viêm màng khóe mắt và màng mộng, chữa trẻ em lên sởi có sốt, sởi mọc không đều.
Lá dùng trị bạch đới. Lá khô ngâm trong nước rồi làm thành dạng đắp trị loét ngoan cố. Rễ trị mất ngủ, đòn ngã tổn thương, điều kinh. Ngoài ra, còn dùng nước sắc bôi trị viêm mũi, viêm giác mạc.
Ít dùng làm thuốc. Có nơi sắc hoa dùng rửa mắt, hoặc pha như pha chè hay sắc uống chữa lỵ. Liều dùng: 3 – 5 g hoa, lá dạng thuốc sắc, còn dùng hoa pha làm trà uống; dùng 1 – 1,5 g rễ nghiền trong nước.
Có khi người ta giã lá vắt lấy nước trộn với lòng trắng trứng đắp lên mắt.
Ngoại cảm phát sốt, ỉa chảy: Dùng 6 g hoa nhài, 10 g chè xanh, 3 g thảo quả sắc với nước uống.
Đau mắt: Dùng 6 g hoa nhài, có thể kết hợp với 9 g kim ngân hoa, 9 g hoa bạch cúc. Tất cả dược liệu đem đun sôi lấy nước xông rồi uống hoặc lấy giã vắt lấy nước, trộn với lòng trắng trứng gà đắp.
Mất ngủ: Dùng 1 – 1,5 g rễ nhài, nghiền trong nước rồi lấy hỗn dịch đó uống.
Rôm sảy: Lá nhài vò vào nước để tắm, có thể phối hợp với lá ngải cứu.
Người có thai và cơ thể suy nhược không nên dùng.