Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Chu sa là một vị thuốc quý trong đông y, có vị ngọt, hơi lạnh, tính bình, thanh nhiệt, được dùng chữa co giật, suy nhược thần kinh, nhọt ngoài da.
Tên Tiếng Việt: Chu sa.
Tên khác: Châu sa, Thần sa, Đơn sa.
Tên khoa học: Cinnabaris.
Chu sa là một khoáng chất bột màu nâu hoặc nâu đỏ ở nhiều hình dạng khác nhau như bột, khối, sợi hoặc mảnh. Chu sa thường ở dạng bột, trong khi Thần sa thường ở dạng khối.
Chu sa là một loại khoáng sản tự nhiên phong phú ở Tứ Xuyên, Hà Bắc, Hồ Nam, Liêu Ninh, Quý Châu và các tỉnh khác. Vì vậy, hiện nay hầu hết dược liệu phải nhập từ Trung Quốc.
Để đáp ứng nhu cầu làm dược liệu, một số nơi đã tổng hợp cây mã đề (Chu sa), nhưng tác dụng dược lý kém nên ít được sử dụng.
Sau khi khai thác Chu sa từ tự nhiên, nó cần được chuẩn bị bằng cách:
Dùng một nam châm để lấy tất cả kim loại ra khỏi Chu sa, sau đó cho nó vào cối xay cùng với nước. Sau khi xay xong, cho thêm nước và khuấy vài lần cho đến khi bột mịn hoàn toàn. Để yên nước trong chậu trong vài giờ, sau khi Chu sa chìm xuống đáy, đổ nước ra ngoài, đậy vung bằng giấy và để khô hoàn toàn.
Dùng chày sứ tán nhỏ Chu sa với nước cất, khi bột lắng xuống thì bỏ màng nổi, gạn lấy nước màu đỏ. Lặp lại một vài lần cho đến khi nước không còn màu đỏ. Lúc này cặn chỉ còn màu đen và bỏ đi. Để lắng nước màu đỏ trong vài giờ, sau đó chắt nước ra, phủ một miếng vải và phơi cho đến khi bột khô hẳn.
Thành phần chính của Chu sa là Sunfua thủy ngân tự nhiên. Thủy ngân tinh khiết (Hg) 86,2%, sunfua (S) 13,8%. Thường lẫn một số tạp chất khác như chất hữu cơ. Khi cho vào ống nghiệm nung nóng sẽ sinh ra HgS màu đen, cuối cùng là khí SO2 bay lên và thuỷ ngân bám vào thành ống. HgS + O2 -> S02 + Hg
Cho đến năm 1963, người ta vẫn chưa rõ các thành phần hoạt tính trong Chu sa là gì. Vì thủy ngân sulfua thường không hòa tan trong nước nên nó là dạng thường được sử dụng trong y học cổ truyền. Năm 1963, Hoàng Như Tô và Phạm Hải Tùng (Đại học Dược Hà Nội) sắc ký đã phân lập được một hợp chất chưa xác định có tác dụng dược lý tương tự như của cỏ cà ri. Cũng trong năm này, Đàm Trung Bảo (Đại học Dược Hà Nội) đã chiết xuất thành sản phẩm tinh khiết và xác định đó là selenua thủy ngân, có tác dụng giống cỏ cà ri. Năm 1964, Đàm Trung Bảo cũng đã lấy bụi ở đáy bể chứa axit sunfuric và đất xung quanh của nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, Việt Nam, chiết xuất selen theo tỷ lệ 6% đến 9%, sau đó chế tạo thủy ngân selen, selenua thủy ngân. Sự tái tạo này có tác dụng tương tự như selenua thủy ngân được làm bằng bột talc.
Tỷ lệ selenua thủy ngân trong Chu sa là 2,5% đến 3%, trong khi hàm lượng trong Chu sa rất nhỏ, khoảng 2%. Nếu chỉ tính selen thì Thần Sa khoảng 3,5% đến 4,5%. Tỷ lệ trong Chu sa rất thấp, chỉ có lượng vết.
Sách cổ ghi lại những tính chất của Chu sa như sau: Vị ngọt, hơi lạnh, đi vào kinh lạc và tim, làm dịu thần kinh, thông kinh mạch, cải thiện thị lực, giải độc, chữa các bệnh về thể chất. Khởi phát mới của bệnh giang mai. Dùng cho các cơ quan nội tạng, nạo vét huyết quản, giải trừ suy nhược, ích tinh khí, loại bỏ ghẻ lở, ghẻ lở. Những người không thực sự nhiệt không thể sử dụng nó.
Năm 1962, Ngô Ứng Long (Trường Quân y Việt Nam) thí nghiệm thấy dịch chiết từ Chu sa tuy không có dấu vết thủy ngân nhưng lại có tác dụng tương tự như Chu sa.
Năm 1964, Hoàng Tích Huyền (Bộ môn Dược lý, Đại học Y Hà Nội) đã sử dụng Đàm Trung Bảo để tổng hợp muối selenua natri, kali, selen và thủy ngân từ selen trong Chusa. Nhà máy sản xuất supe Lân Lâm Thao, đã đưa ra kết luận sau:
1. Selen natri và kali, selen và selen rất độc, không được dùng làm thuốc.
2. Muối HgSe ở dạng keo tồn tại trong Chu sa, Chu sa, hoặc được tổng hợp nhân tạo, ít độc, có các tính chất sau:
Tác dụng an thần rất mạnh, tác dụng chống co giật mạnh hơn các loại thuốc an thần thường dùng như bromua. Tác động lên vỏ não, không làm thay đổi nhịp tim và không ngăn ngừa nôn mửa do apomorphin.
Thuốc an thần có thể kéo dài thời gian ngủ từ 2 đến 3 lần, và natri pental có thể kéo dài thời gian gây mê từ 2 đến 3 lần. Theo báo cáo của tạp chí nước ngoài, một số hợp chất selen đã được sử dụng, và tác dụng tương tự như Chu sa.
Một số hợp chất hữu cơ của selen (Anh, Ấn Độ) được dùng làm thuốc an thần.
Các nhà nghiên cứu ở Liên Xô cũ đã thử nghiệm các hợp chất selen cho tác dụng diệt khuẩn và điều trị nhiều loại bệnh ngoài da. Ba Lan và Nhật Bản sử dụng selenosemicabazon để điều trị bệnh lao và vi khuẩn.
Hợp chất selemecaptopurine được sử dụng để chống lại sự tăng sinh của tế bào.
Năm 1964, Hoa Kỳ sử dụng 5,5% sản lượng selen làm dược liệu, khoảng 30 tấn.
Qua thí nghiệm và một số tài liệu nước ngoài, chúng tôi thấy kinh nghiệm của một số người sử dụng Chu sa, Chu sa đã được khẳng định, hoạt chất của nó chủ yếu là muối selen, và tạp chất này tồn tại trong 1 tỷ người. .Trong trường hợp tỷ lệ Thần Sa cao hơn, người ta cũng cho rằng Thần Sa tốt hơn Chu Sa, mặc dù trước đó không rõ lý do.
Tây y hiện nay hầu như không dùng thủy ngân sulfua làm thuốc. Trước đây được sử dụng để điều trị bệnh giang mai, nhưng thường chỉ có 10% ở dạng thuốc mỡ. Hiếm khi dùng để uống.
Liều thông thường là 0,04 - 1g mỗi ngày, dạng bột hoặc viên, hoặc với tim lợn. Tuỳ nơi rắc ít hay nhiều khi dùng ngoài.
Giải đậu độc lúc sắp mọc hay mới mọc
Chu sa 1g (3 phân) nghiền nhỏ hòa với mật mà uống.
Chữa di tinh
Chu sa (thuỷ phi) cho tim heo vào, buộc chặt tim heo, nấu chín.
Thiên vương bổ tâm đan
Thành phần: Chu sa, Đan sâm, Huyền sâm, Toan táo nhân sao, Đương quy, Viễn chí, Đảng sâm, Cát cánh, Bá tử nhân, Bạch linh, Ngũ vị tử, Mạch môn,.
Bài thuốc trên tán nhỏ, trộn với mật ong làm thành viên lớn. Bên ngoài phủ một lớp bột áo mịn. Mỗi ngày uống 10g, chia 2 lần, uống với nước ấm trước khi đi ngủ.
Hiệu quả: Bổ âm dưỡng huyết, dưỡng tim, xoa dịu thần kinh.
Chủ trị: Khí và huyết bất túc, hồi hộp, hay quên, khó ngủ, ngủ hay lơ mơ, táo bón.
Chu sa an thần hoàn
Thành phần: Chu sa, Hoàng liên, Sinh địa, Chích Cam thảo, Xuyên quy.
Các dược liệu nghiền bột làm thành viên hoàn, Chu sa làm áo. Mỗi ngày uống 4 - 12g trước khi đi ngủ.
Hiệu quả: Làm dịu thần kinh. Trị chứng nóng trong, khó ngủ, hồi hộp, đánh trống ngực.
Sách cổ nói rằng Thần sa phải dùng sống, không được dùng lửa. Từ hóa học, chúng ta có thể thấy rằng khi dùng lửa, nhiệt sẽ biến các muối thủy ngân thành thủy ngân, dễ bay hơi và độc hại. Dùng nhiều có thể khiến con người trở nên “ngu xuẩn” (mất trí, không tỉnh táo).
Những người có chức năng gan thận kém cần thận trọng khi sử dụng loại thuốc này, vì loại thuốc này có thể khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn.
Thành phần chính của Chu sa hay Thần Sa là thủy ngân sulfua. Nó được khai thác trong tự nhiên. Y học cổ truyền sử dụng nó với tác dụng an thần, gây ngủ. Tuy nhiên, đây là một loại thuốc có độc tính cao, xin vui lòng không sử dụng nó một cách tùy tiện.
Tra cứu dược liệu: https://tracuuduoclieu.vn/dua-ba.html
Đỗ Tất Lợi (2004). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Y học, Hà Nội
Nguyễn Nhược Kim (2009). Phương tễ học. NXB Y học, Hà Nội.
Phạm Xuân Sinh, Phùng Hòa Bình (2002). Dược học cổ truyền. NXB Y học, Hà Nội.