Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Dổi, tên khoa học là Michelia tonkinensis A. Chev., họ Ngọc lan (Magnoliaceae), là cây cho hạt làm gia vị và làm thuốc.
Tên Tiếng Việt: Dổi (Hạt)
Tên khác: Giổi xanh; giổi bắc; dổi Tây Nguyên; dổi Hoà Bình;…
Tên khoa học: Michelia tonkinensis A. Chev., thuộc họ Ngọc Lan (Magnoliaceae)
Các tên đồng nghĩa (synonym) của loài này được xác định là Talauma gioi A. Chev., Michelia gioi (A. Chev.) Sima & Hong Yu, Michelia hypolampra Dandy, Magnolia hypolampra (Dandy) Figlar và Michelia hedyosperma Y. W. Law.
Dổi là một cây to, cao, có thể trên 20m, thân thẳng, vỏ xám nứt dọc. Lá hình thuẫn, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới có lông tơ màu hung, cuống dài. Hoa to, mọc đơn độc ở đầu cành, cuống lớn có lông. Đài và tràng nạc, không phân biệt. Nhị rất nhiều và cứng, ô phấn nứt dài, chỉ nhị ngắn và to. Lá noãn xếp xoắn ốc thành một khối hình trứng, vòi ngắn, tù và nhẵn. Mỗi lá noãn có hai noãn. Quả kép gồm nhiều đại khi chín hóa gỗ, dày, nứt theo đường bụng thành hai mảnh. Hạt dính liền với trụ giữa của đế.
Mùa hoa: Tháng 4 – 5. Mùa quả: Tháng 9 - 10.
Cây mọc hoang dại ở khắp những vùng rừng núi thuộc tỉnh Hà Tây, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Thanh Hóa.
Chủ yếu cây dổi cho gỗ thường dùng để làm nhà, đóng thuyền, làm đồ dùng trong nhà. Làm thuốc người ta thường dùng quản(gọi nhầm là hạt). Tại những chợ ở các tỉnh miền núi, một số ít ở Hà Nội, nhân dân thường bán quả dổi nhỏ bằng quả xoan nhỏ, mặt nhăn nheo, mùi thơm dễ chịu. Tại những vùng núi, ngoài công dụng làm thuốc, người ta còn dùng làm gia vị.
Vỏ cây cũng được dùng làm thuốc, nhưng phổ biến nhất là quả.
Hạt, quả, vỏ cây.
Trong quả dổi có tinh dầu mùi thơm cumarin và hơi có mùi long não.
Thành phần thịt quả và hạt chứa chủ yếu safrol (70,2% và 72,9%) và metyl eugenol (24,2% và 18,5%). Camphor (23,2%) là thành phần chủ yếu của tinh dầu trích ra từ thân cây. Tinh dầu trích ra từ vỏ thân chứa 15,7% Camphor, 14,3% safrol, 15,6% Beta-caryophyllen và 13,7% elemicin. Tinh dầu cất từ lá có 10,9% Beta-caryophyllen và 46,3% elemicin.
Hạt dổi có mùi thơm, vị cay, tính ấm; làm thuốc chữa ho, ngâm rượu để uống và xoa bóp trị phong thấp, nhức mỏi gân xương, trị đau bụng, ăn không tiêu.
Quả dổi dùng thuốc chữa đau bụng, ăn uống không tiêu, xoa bóp khi đau nhức, tê thấp.
Vỏ cây dổi được dùng làm thuốc trị sốt, cảm cúm, phong thấp, kích thích tiêu hoá, chữa đau bụng, ăn không tiêu.
Không tìm thấy thông tin.
Tại Hà Tây, Hòa Bình nhân dân, đặc biệt dân tộc Mường, thường dùng quả dổi giã với muối dùng làm gia vị. Ngoài ra còn dùng thuốc chữa đau bụng, ăn uống không tiêu, xoa bóp khi đau nhức, tê thấp. Ngày uống 1 đến 3 quả hoặc dưới dạng bột, hoặc dưới dạng ngâm rượu (quả dổi 100g, rượu 40 độ 500ml, ngâm 7 - 10 ngày, mỗi ngày uống 3 - 5ml rượu này). Dùng ngoài xoa bóp không kể liều lượng.
Vỏ cây dùng làm thuốc chữa sốt, ăn uống không tiêu. Ngày dùng 6-10g dưới dạng thuốc sắc.
Không tìm thấy thông tin.
Không tìm thấy thông tin.
Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - Đỗ Tất Lợi.
Một số loài giổi ăn hạt của Việt Nam - Vũ Quang Nam, Đỗ Ngọc Chương http://iebr.ac.vn/database/HNTQ7/283.pdf