Phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán bệnh cúm
Phương pháp chẩn đoán bệnh cúm dựa trên:
Đánh giá lâm sàng.
Đôi khi xét nghiệm chẩn đoán nhanh hoặc xét nghiệm phân tử.
Đo độ bão hòa oxy mạch và chụp X-quang ngực cho những bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp nặng.
Chẩn đoán cúm thường được thực hiện dựa trên lâm sàng ở những bệnh nhân mắc hội chứng điển hình khi cúm được biết là phổ biến trong cộng đồng.
Các xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược (RT-PCR) nhạy và đặc hiệu và có thể phân biệt các tuýp cúm. Nếu xét nghiệm này thực hiện nhanh chóng, kết quả có thể được sử dụng để chọn liệu pháp kháng virus thích hợp; nó cũng cần phải được thực hiện khi có nghi ngờ cúm trên bệnh nhân nằm viện. Ngoài ra, các xét nghiệm này có thể ngăn ngừa việc sử dụng các loại thuốc kháng khuẩn không cần thiết và việc xác định virus cúm cụ thể có thể có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát nhiễm trùng. Những xét nghiệm này cũng hữu ích trong việc xác định các đợt bùng phát dịch bệnh hô hấp có phải là do cúm hay không.
Nuôi cấy tế bào từ các tăm bông phết hoặc hút mũi họng phải mất vài ngày và không hữu ích trong việc đưa ra các quyết định điều trị cho bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu của đường hô hấp dưới (ví dụ: Khó thở, ran trong phổi được ghi nhận khi khám phổi), thì cần phải đo độ bão hòa oxy để phát hiện giảm oxy máu và chụp X-quang phổi để phát hiện viêm phổi.
Phương pháp điều trị bệnh cúm hiệu quả
Điều trị triệu chứng là chủ yếu.
Đôi khi dùng các loại thuốc kháng virus.
Điều trị cho hầu hết bệnh nhân bị cúm là điều trị triệu chứng, bao gồm nghỉ ngơi, bù nước và hạ sốt khi cần, nhưng tránh dùng aspirin cho bệnh nhân ≤ 18 tuổi. Hầu hết bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, mặc dù phục hồi hoàn toàn thường mất từ 1 đến 2 tuần. Các trường hợp nhiễm khuẩn phức tạp đòi hỏi phải có kháng sinh thích hợp.
Thuốc điều trị cúm:
Oseltamivir liều 75 mg, uống 2 lần mỗi ngày, dùng cho những bệnh nhân > 12 tuổi; liều thấp hơn có thể được sử dụng cho trẻ em dưới 1 tuổi. Oseltamivir đôi khi có thể gây buồn nôn và nôn. Ở trẻ em, oseltamivir có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh viêm tai giữa; tuy nhiên, không có dữ liệu nào khác cho thấy rõ rằng việc điều trị cúm sẽ ngăn ngừa các biến chứng.
Zanamivir được cho dùng bằng ống hít, 2 nhát xịt (10 mg) x 2 lần/ngày; thuốc có thể được sử dụng ở người lớn và trẻ em ≥ 7 tuổi.
Peramivir được cho dùng theo đường tĩnh mạch (IV) dưới dạng một liều duy nhất và có thể được sử dụng trên những bệnh nhân > 2 tuổi không thể dung nạp được các loại thuốc dùng theo đường uống hoặc hít.
Baloxavir được cho dùng dưới dạng liều 40 mg duy nhất theo đường uống cho những bệnh nhân ≥ 12 tuổi và 40 đến 80 kg; hoặc liều 80 mg duy nhất cho những bệnh nhân > 80 kg. Thuốc có thể được sử dụng cho những bệnh nhân ≥ 12 tuổi bị cúm không biến chứng, có triệu chứng ≤ 48 giờ và những người không có nguy cơ cao. Thuốc chưa được nghiên cứu trên những bệnh nhân nằm viện, suy giảm miễn dịch hoặc phụ nữ có thai hoặc bị viêm phổi nặng.
Lưu ý: Các loại thuốc khi dùng phải tuân thủ theo sự hướng dẫn của bác sĩ.
Hỏi đáp (0 bình luận)