Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Insulin detemir
Loại thuốc
Hormon làm hạ glucose máu - hormon điều trị đái tháo đường (insulin).
Dạng thuốc và hàm lượng
Ống tiêm hoặc bút tiêm thể tích 3ml chứa 300 đơn vị insulin detemir (1 ml dung dịch chứa 100 đv insulin detemir tương đương 14,2 mg).
Insulin detemir được dùng điều trị:
Thuốc có nguồn gốc sinh tổng hợp tương tự insulin người được điều chế bằng công nghệ tái tổ hợp DNA trên Saccharomyces cerevisiae biến đổi gen. Insulin detemir khác về cấu trúc với insulin người: mất threonin ở vị trí 30 trên chuỗi B và ở chỗ acyl hóa lysin ở vị trí 29 trên chuỗi B với acid myristic - một acid béo 14 C.
Insulin kích thích chuyển hóa carbohydrate ở mô cơ - xương, tim và mỡ bằng cách tăng vận chuyển glucose vào trong tế bào. Mô thần kinh, hồng cầu, và các tế bào ở ruột, gan và ống thận không cần insulin để vận chuyển glucose. Ở gan, insulin tạo thuận lợi cho phosphoryl hóa glucose thành glucose-6-phosphat, chất này được chuyển thành glycogen hoặc chuyển hóa tiếp.
Insulin cũng tác dụng trực tiếp đến chuyển hóa mỡ và protein.
Insulin do bản chất là một protein nên bị phá hủy ở đường tiêu hóa.
Tốc độ hấp thu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đường dùng (tiêm bắp hấp thu nhanh hơn tiêm dưới da), vị trí tiêm, thể tích và nồng độ thuốc và loại thuốc insulin. Hấp thu có thể bị chậm và/hoặc giảm do có kháng thể gắn vào insulin, kháng thể này phát triển ở tất cả người bệnh sau 2 - 3 tuần điều trị insulin.
Thể tích phân bố rộng (khoảng 0,1 L/kg).
Chuyển hóa nhanh chủ yếu ở gan do enzym glutathion insulin transhydrogenase và ở một mức độ ít hơn ở thận và mô cơ. 60% được chuyển hóa ở tế bào lót ống lượn gần.
Thời gian bán thải từ 5 đến 7 giờ tùy thuộc vào liều lượng.
Dùng chung các thuốc có thể gây hạ đường huyết quá mức: Thuốc uống trị tiểu đường, thuốc chủ vận thụ thể GLP-1, chất ức chế monoamine oxidase (MAOI), thuốc chẹn beta, chất ức chế men chuyển angiotensin (ACE), salicylat, steroid đồng hóa và sulfonamid.
Dùng chung các thuốc sau có thể giảm khả năng kiểm soát đường huyết: Uống thuốc tránh thai, thiazide, glucocorticoid, hormone tuyến giáp, thuốc cường giao cảm, hormone tăng trưởng và danazol.
Thuốc chẹn beta có thể che dấu các triệu chứng của hạ đường huyết.
Octreotide / lanreotide có thể làm tăng hoặc giảm nhu cầu insulin.
Rượu có thể tăng cường hoặc làm giảm tác dụng hạ đường huyết của insulin.
Tiêm dưới da.
Các vị trí có thể tiêm: Vùng đùi, cánh tay trên, mông hoặc bụng.
Nếu dùng loại kim tiêm và lọ insulin, kích cỡ kim phải phù hợp với nồng độ insulin. Tiêm ở nhiệt độ phòng, tiêm kéo dài trong ít nhất 6 giây. Cần thay đổi vị trí tiêm để bất cứ vị trí tiêm nào cũng không quá một mũi cách nhau 1 - 2 tuần.
Type I:
Với bệnh nhân chưa từng dùng insulin:
Với bệnh nhân chuyển đổi từ các liệu pháp Insulin khác:
Type II:
Đái tháo đường type I và ≥ 2 tuổi, chưa từng dùng insulin:
Với bệnh nhân chuyển đổi từ các liệu pháp Insulin khác:
Hạ glucose huyết.
Tăng glucose huyết phản ứng (tăng glucose huyết sau hạ glucose huyết, hiệu ứng somogyi), hiện tượng bình minh.
Dị ứng ban đỏ, ngứa ở chỗ tiêm, phát triển mô mỡ (thường do tiêm thuốc dưới da nhiều lần tại một vị trí).
Kháng insulin, toàn thân: nổi mày đay, phản ứng phản vệ, phù mạch, hạ kali huyết, teo mô mỡ ở chỗ tiêm thuốc dưới da.
Dấu hiệu tăng đường huyết dần dần xuất hiện bao gồm: Tăng đi tiểu; cảm thấy khát nước; mất cảm giác thèm ăn; buồn nôn, nôn; buồn ngủ hoặc mệt mỏi; đỏ bừng; da khô; khô miệng và hơi thở có mùi trái cây (aceton).
Nếu có dấu hiệu nào như trên: đo lượng đường trong máu, xét nghiệm nước tiểu để tìm xeton nếu bạn có thể, sau đó tìm kiếm sự tư vấn y tế ngay lập tức.
Quá liều và độc tính
Hạ glucose huyết với các triệu chứng nhược cơ, cảm giác đói, vã mồ hôi toàn thân, nhức đầu, run, rối loạn thị giác, dễ bị kích thích, lú lẫn và rồi hôn mê do hạ đường huyết.
Cách xử lý khi quá liều
Hạ glucose huyết nhẹ (vã mồ hôi, nhợt nhạt, đánh trống ngực, run, nhức đầu, thay đổi hành vi) có thể cho ăn thức ăn chứa carbohydrat (bánh ngọt, viên đường, kẹo) hoặc uống (nước ép trái cây, cam).
Hạ glucose huyết nặng (hôn mê, co giật) đòi hỏi phải điều trị bằng glucagon hoặc dung dịch glucose tĩnh mạch.
Hạ glucose huyết nặng ít xảy ra nhưng nghiêm trọng, phải có sẵn một lọ glucagon trong gia đình để tiêm trong trường hợp cấp cứu. Nếu người bệnh không đáp ứng hoặc không có glucagon, phải cho khoảng 10 - 25 g glucose dưới dạng dung dịch glucose tiêm tĩnh mạch 50%, 20 - 50 ml.
Trong trường hợp nặng có thể cần glucose tĩnh mạch liều cao hơn hoặc lặp lại nhiều lần. Tiếp tục truyền glucose tĩnh mạch liên tục 5 - 10 g/giờ để duy trì nồng độ glucose huyết thỏa đáng cho tới khi người bệnh tỉnh và ăn được. Để phòng phản ứng hạ glucose huyết, phải cho ăn ngay carbohydrat khi người bệnh tỉnh.
Ở trẻ em và thiếu niên bị hạ glucose huyết nặng, glucagon với liều 30 microgam/kg tiêm dưới da, tối đa 1 mg (1 đơn vị) làm tăng nồng độ glucose huyết trong 5 - 10 phút nhưng có thể gây nôn, buồn nôn.