Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Ngưu hoàng (Calculus Bovis, Bovidae) là loại cây thuốc được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Hoa của cây chỉ nở vào buổi ngày và mọc sát mặt đất nên được gọi là cây nở ngày. Cây có tác dụng tiêu độc, ho, giảm đau, kháng viêm, trị gout hoặc cảm cúm,…
Tên Tiếng Việt: Ngưu hoàng
Tên khác: Tây hoàng; Tô hoàng; Sửu bảo; Đởm hoàng; Ô kim hoàng; Đản hoàng; Quả hoàng tức sạn túi mật; Quản hoàng; Toái phiến hoàng; Không tâm hoàng tức sạn ở ống gan mật
Tên khoa học: Calculus Bovis, thuộc Họ Trâu bò – Bovidae
Ngưu hoàng là sạn (sỏi) trong túi mật của trâu có bệnh Buhalus bubalis L. hoặc bò Bos taurus var. domesticus có bệnh. Kích thước của ngưu hoàng lớn bé tùy thuộc vào trình độ kết sạn. Ngưu hoàng có kích thước lớn có thể lớn bằng quả trứng gà, có khi có kích thước nhỏ như viên sạn nhỏ hoặc hòn cụi. Bề mặt cắt ngang của ngưu hoàng gồm có nhiều lớp có màu vàng nâu hoặc nâu đỏ dính chặt vào nhau.
Ngưu hoàng là vị thuốc vừa mới được phát hiện; do đó, kinh nghiệm để phân biệt trâu, bò có ngưu hoàng còn ít. Theo các tài liệu ghi lại, những con trâu, bò già, gầy yếu, mắt lờ đờ, đầu hay nghiêng khi đi, thường hay thở khò khè như bị hen khi đứng hoặc thường là trâu, bò có ngưu hoàng.
Ngưu hoàng tự nhiên sau khi được thu lấy từ túi mật được rửa sạch, cho vào hộp kín có chứa vôi, gạo rang hoặc silicagel để hút ẩm. Không phơi nắng hay sấy lửa hoặc đê ở chỗ gió mạnh vì nhiệt hoặc gió mạnh có thể làm ngưu hoàng nứt vỡ.
Ngày nay, ngưu hoàng được tổng hợp bằng cách tổng hợp từ mật bò hoặc mật heo. Những năm gần đây, người ta còn dùng phương pháp cấy hoàng hạch vào túi mật của bò, sau đó bơm vi khuẩn E.coli không gây bệnh vào túi mật, gúp các thành phần của mật bám vào hoạng hạch, từ đó, hình thành sạn mật.
Sạn (sỏi) trong túi mật của trâu hoặc bò.
Trong ngưu hoàng có chứa axit cholic, cholesterol, ergoterol, axit béo, este photphoric, billiubin, vitamin D, muối canxi, sắt, đồng, v.v… Ngưu hoàng của châu Úc còn chứa các loại carotenoid, axit amin như alanin, glycxin, taurin, axit arpactic, leuxin và methionin.
Trong đông y, ngưu hoàng là vị thuốc chủ trị kinh giản, sốt hóa điên cuồng.
Tác dụng đối với trung khu thần kinh
Trong báo The Journal of Oriental medecine 33, (5) 1940, các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh ngưu hoàng có thành phần axit cholic, muối canxi có tác dụng trấn tĩnh, ức chế sự hưng phấn của long não, caffein và picrotoxin, nhưng không có tác dụng với strychnin.
Tác dụng đối với máu
Các nhà khoa học đã có báo cáo chứng minh tác dụng tăng hồng huyết cầu và huyết sắc tố, tác dụng này chủ yếu do vitamin D, biilirubin và ergoterol có trong ngưu hoàng. Tuy nhiên, trong thành ngưu hoàng có axit cholic có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt tương tự như tính chất của saponin. Do đó, nếu tiếp xúc trực tiếp với hồng cầu như tiêm tĩnh mạch có thể gây phá huyết.
Tác dụng đối với tim mạch
Thành phần acit cholic trong ngưu hoàng có tác dụng tương tự như dương địa hoàng Digitalis, nếu tiêm một lượng lớn ngưu hoàng vào máu có thể gây ức chế cơ, dẫn đến hạ huyết áp và tăng hô hấp.
Trong dân gian, ngưu hoàng thường được sử dụng dưới dạng bột hay phối hợp với các vị thuốc khác với tác dụng để trấn tĩnh trong các triệu chứng điên cuồng, sốt quá phát cuồng, co quắp, trẻ em bị kinh phong.
Trong các tài liệu cổ mô tả, ngưu hoàng có vị đắng, tính bình, hơi có độc, quy kinh tâm và can. Có tác dụng thanh tâm giải độc, chữa hồi hộp và long đờm. Dùng trong các bệnh nhiệt quá phát cuồng, thần trí hôn mê, trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau, ung thư, đinh nhọt. Ngoài ra, ngưu hoàng có thể làm trụy thai với liều dùng,3 – 0,6 g, do đó, không dùng ngưu hoàng cho phụ nữ mang thai.
Chữa bệnh viêm não, sốt nóng, sốt quá nói mê, co quắp
Ngưu hoàng, uất kim (nghệ), hoàng liên, hoàng cầm, sơn chi (dành dành), chu sa, hùng hoàng (As2S3), mỗi vị 40 g; xạ hương, băng phiên mỗi vị 10 g; trân châu 20 g. Tán nhỏ, viên thành viên với mật ong, mội viên nặng 4 g. Bảo quản trog viên sáp. Mỗi lần uống 1 viên, có thể uống tới 3 viên/ngày. Liều giảm đi một nửa khi sử dụng cho trẻ em. Bệnh nặng thể lực có thể uống thêm.
Doanh phận không có nhiệt và phụ nữ có thai không dùng được.
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.