Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Ung thư buồng trứng là một trong những bệnh ung thư nguy hiểm nhất ở phụ nữ, một phần vì bệnh này thường được phát hiện ở giai đoạn muộn.
Có rất nhiều quan tâm nghiên cứu để tìm ra một loại xét nghiệm hoặc kết hợp các xét nghiệm nhằm phát hiện ung thư buồng trứng ở giai đoạn sớm hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được một cách xét nghiệm sàng lọc/tầm soát nào làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư buồng trứng. Trong thời điểm hiện tại:
Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng bao gồm:
Một số yếu tố có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư buồng trứng, bao gồm:
Một xét nghiệm sàng lọc là xét nghiệm có thể tìm thấy một căn bệnh, chẳng hạn như ung thư. Trong giai đoạn đầu khi không có triệu chứng và khi ung thư có nhiều khả năng đáp ứng tốt với điều trị nhất. Một ví dụ về một xét nghiệm sàng lọc thông thường là Pap smear, được sử dụng để phát hiện các tổn thương ung thư và tiền ung thư cổ tử cung.
Một xét nghiệm sàng lọc tốt phải tìm thấy hầu hết những người mắc bệnh này và không tìm nhầm những người không mắc bệnh này. Một xét nghiệm dương tính khi không có bệnh nào được gọi là “dương tính giả”. Điều đặc biệt quan trọng là tránh các xét nghiệm dương tính giả cho ung thư buồng trứng. Vì xét nghiệm sàng lọc dương tính thường đòi hỏi phải phẫu thuật.
Lợi ích: Lợi ích tiềm năng của việc kiểm tra ung thư buồng trứng là cơ hội để tìm ra ung thư ở giai đoạn có thể chữa được, giảm nguy cơ tử vong.
Rủi ro: Nguy cơ tiềm ẩn của việc kiểm tra ung thư buồng trứng là gặp phải tình huống dương tính giả như nói ở trên. Điều này có thể dẫn đến phẫu thuật không cần thiết cho nhiều phụ nữ khỏe mạnh. Phẫu thuật mang theo sự lo âu, sang thương và mất thời gian làm việc, cũng như nguy cơ biến chứng nghiêm trọng. Ngoài ra nó cũng đắt tiền.
Người ta vẫn đang nghiên cứu để tìm ra sự kết hợp tốt nhất của các xét nghiệm tầm soát ung thư buồng trứng. Các xét nghiệm có thể hữu ích cho phụ nữ có nguy cơ cao bao gồm: xét nghiệm máu đo chất chỉ thị khối u (tumor marker) CA 125, siêu âm, hoặc kết hợp cả hai.
CA 125: CA 125 là một protein có nồng độ trong máu cao hơn bình thường trong khoảng 80% phụ nữ bị ung thư buồng trứng. CA 125 thường được sử dụng để theo dõi phụ nữ bị ung thư buồng trứng.
Người ta hy vọng rằng CA 125 có thể được sử dụng để biết liệu một người phụ nữ có nguy cơ bị ung thư buồng trứng hay không. Tuy nhiên, mức CA 125 có thể cao trong nhiều điều kiện khác, bao gồm:
Ngoài ra, nồng độ CA 125 cao hơn bình thường trong khoảng 1% phụ nữ khỏe mạnh và cũng thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt.
Vì vậy, nếu bạn có mức CA 125 cao hơn bình thường. Bạn có thể bị ung thư buồng trứng hoặc một tình trạng phổ biến hơn và ít nghiêm trọng hơn. Siêu âm vùng chậu có thể hữu ích nếu bạn bị ung thư buồng trứng. Mặc dù cách duy nhất để biết chắc chắn là phẫu thuật. Chính vì thế, CA 125 không được khuyến nghị như là một xét nghiệm sàng lọc độc lập đối với ung thư buồng trứng.
Siêu âm vùng chậu: Siêu âm vùng chậu sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của các cơ quan trong xương chậu, bao gồm buồng trứng. Các bác sĩ sẽ dùng đầu dò siêu âm khảo sát qua ngả âm đạo và/hoặc thành bụng.
Khi được sử dụng làm xét nghiệm tầm soát ung thư buồng trứng, siêu âm qua ngả âm đạo có thể tìm thấy từ 80% đến 100% ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, siêu âm không phải lúc nào cũng cho biết sự khác biệt giữa ung thư buồng trứng và các tình trạng phổ biến khác (u nang buồng trứng, lạc nội mạc tử cung). Siêu âm cũng có thể có dương tính giả, dẫn đến việc phải làm nhiều xét nghiệm hơn hoặc phẫu thuật không cần thiết để đánh giá thêm buồng trứng. Kết quả là, siêu âm vùng chậu không được khuyến cáo như là một xét nghiệm sàng lọc độc lập đối với ung thư buồng trứng.
Kết hợp CA 125 và siêu âm vùng chậu: Một số nghiên cứu đã xem xét sử dụng siêu âm CA 125 và siêu âm vùng chậu với nhau để phát hiện ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, kết quả của những nghiên cứu này hơi thất vọng:
Khi có tiền sử gia đình nhóm nguy cơ cao: Có tiền sử gia đình nhóm nguy cơ cao là người có một hoặc nhiều người thân (cùng huyết thống) mắc bệnh ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng.
Phụ nữ có tiền sử gia đình như trên nên được tư vấn di truyền để thảo luận về xét nghiệm BRCA1 và BRCA2.
Khám tầm soát ung thư buồng trứng có thể được khuyến cáo nếu bạn có tiền sử gia đình nhóm nguy cơ cao như trên và:
Khám nghiệm ung thư buồng trứng cũng có thể được cân nhắc cho những phụ nữ đủ điều kiện để xét nghiệm di truyền (vì tiền sử gia đình có nguy cơ cao) nhưng họ đã chọn không làm xét nghiệm này. Trong nhóm này, việc sàng lọc ung thư buồng trứng có thể được khuyến nghị. Bắt đầu từ 30 đến 35 tuổi, hoặc sớm hơn 5 đến 10 năm so với tuổi khi thành viên gia đình trẻ nhất được chẩn đoán. Sàng lọc có thể bao gồm xét nghiệm máu cho CA-125 và siêu âm vùng chậu.
Nếu có lịch sử gia đình nhóm nguy cơ cao. Bạn cũng có thể cân nhắc lựa chọn thay thế việc sàng lọc ung thư buồng trứng, như cắt bỏ buồng trứng. Các lựa chọn này phải được thảo luận riêng với các bác sĩ có kinh nghiệm.
Lịch sử gia đình nhóm nguy cơ thấp hơn: Phụ nữ có nguy cơ thấp là không có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư buồng trứng. Sàng lọc ung thư buồng trứng không được khuyến cáo ở nhóm này.
Trong giai đoạn đầu của ung thư buồng trứng, các triệu chứng thường mơ hồ và không đặc hiệu. Chúng có thể bao gồm khó chịu vùng chậu hoặc bụng, đầy bụng, khó ăn hoặc cảm thấy no, tăng kích thước bụng, hoặc đổ xô đi tiểu thường xuyên. Tuy nhiên, những triệu chứng này cũng có thể do nhiều bệnh hay tình trạng khác gây ra.
Nếu bạn có một hoặc nhiều triệu chứng này trong năm qua, hãy gặp bác sĩ hoặc y tá để trao đổi thêm.
Thủy Phan
Nguồn tham khảo: yhoccongdong.com