Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Đỗ trọng hay còn có tên gọi khác là Dang ping (Tày). Tên khoa học của Đinh lăng là Eucommia ulmoides Oliv. Công dụng: Chữa đau lưng mỏi gối, tê thấp, tê phù, cao huyết áp, di tinh, liệt dương, hay đi đái đêm, bại liệt, phụ nữ có thai đau bụng, động thai ra huyết (lấy vỏ sắc uống).
Tên tiếng Việt: Đỗ trọng, Dang ping (Tày).
Tên khác: Tư trọng; Tư tiên; Mộc miên; Miên; Miên hoa; Ngọc ti bì; Loạn ngân ty; Quỷ tiên mộc; Hậu đỗ trọng; Diêm thủy sao; Đỗ trọng; Xuyên Đỗ trọng; Miên đỗ trọng.
Tên khoa học: Eucommia ulmoides Oliv.
Họ: Eucommiaceae (Đỗ trọng).
Đỗ trọng là một cây to, có thể cao lên tới 10 - 20m và quanh năm xanh tươi.
Liên Xô cũ đã lai tạo cây này thành cây nhỏ cao 3 - 5m để tiện cho việc thu hoạch, lá mọc so le, hình trứng rộng, đầu lá nhọn, gốc lá tròn, mép lá có răng cưa, khi đứt lá làm 2 - 3 mảnh sẽ thấy những sợi nhựa trắng như tơ giữa các mảnh lá đo, phiến lá rộng 3,5 - 6,5cm, dài 13cm. Cuống lá Đỗ trọng ngắn 1 - 1,5cm. Hoa đơn tính, hoa đực hoa cái khác gốc, không có bao hoa. Quả hình thoi dài 3cm, rộng 1cm dẹt, đầu quả xẻ làm 2 thành hình chữ V.
Cây Đỗ trọng hiện chưa thấy mọc hoang ở Việt Nam. Năm 1958 đưa giống của Trung Quốc về trồng nhưng chưa thành công. Năm 1965 trồng thử Đỗ trọng bằng hạt ngay tại Hà Nội, cây mọc và phát triển rất tốt, đến tháng 9/1969 cây vẫn sống.
Cây mọc được cả ở những nơi lạnh như Sapa (Lào Cai). Gần đây ở Việt Nam đã trồng nhiều hơn, tuy nhiên số lượng chưa đủ cung cấp theo nhu cầu sử dụng nên hiện nay vị Đỗ trọng chính thức vẫn phải nhập khẩu. Trên thị trường có bán nam Đỗ trọng là vỏ của những cây khác, nên chú ý để tránh nhầm lẫn (xem chú thích ở dưới).
Đỗ trọng được trồng ở Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên,..v.v) và ở Liên Xô cũ (miền Nam)
Vào mùa hạ, bóc vỏ ở những cây có đường kính to, ép cho phẳng, xếp thành đống, chờ 6 - 7 ngày cho đổ mồ hôi, mặt trong có màu đen nâu rồi đem phơi khô. Vỏ mỏng, mặt ngoài màu xám, mặt trong đen nâu nhạt, khi bẻ có các sợi trắng như tơ giống như mành mành.
Bộ phận sử dụng được của Đỗ trọng là vỏ thân.
Đỗ trọng được nghiên cứu nhiều để sử dụng do chất nhựa của nó có tính chất như cao su.
Theo J. Parkin (1921) trong Đỗ trọng có 5% độ ẩm; 2,5% tro, 70% nhựa và 22,5% gutta pecka. Tuy nhiên chất gutta pecka này có tính chất đàn hồi kém gutta pecka tự nhiên, việc chiết xuất lại khó khăn, hiệu suất thu được chỉ 2% trong khi chiết xuất ở các cây khác có gutta pecka hiệu suất thu được cao hơn gấp 2 - 3 lần. Từ sau đại chiến lần thứ 2, Liên Xô cũ trồng rất nhiều Đỗ trọng ở vùng Capcado để lấy chất gutta pecka. Theo sự nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ trong vỏ cây Đỗ trọng có 3 - 7% chất có tính chất của gutta pecka , trong lá có 2%, trong quả có 27,34%, ở nhiệt độ 45-700C, chất gutta pecka của Đỗ trọng có tính chất dẻo rất cao, khả năng chịu nước biển và độ cách điện cũng cao do đó dùng làm vật cách điện và để bọc dây điện ngầm dưới biển.
Ngoài chất như gutta pecka trong Đỗ trọng có chứa chất màu, chất anbumin, chất béo, tinh dầu và muối vô cơ.
Trong lá có tanin và nhựa. không có ankaloid. Dù sao hoạt chất cũng chưa rõ.
Đỗ trọng vị ngọt hơi cay, tính ôn, vào hai kinh can và thận. Tác dụng bổ can, thận, mạnh gân cốt, an thai, dùng chữa đau lưng, đi tiểu nhiều, chân gối yếu mềm.
N.V.Sapdinscoi (Phòng dược lý viện VNIFI, Liên xô cũ-1950) đã nghiên cứu và xác định vị thuốc Đỗ trọng không có độc.
Với liều vừa phải, Đỗ trọng có tác dụng kích thích. Với liều cao có tác dụng ức chế hệ thống thần kinh trung ương, nhất là vùng vỏ não. Tác dụng hạ huyết áp do tác dụng trên trung tâm vận mạch ở hành tủy và trên mê tẩu thần kinh (nerf vague). Đỗ trọng còn có tác dụng làm mạnh sự co bóp của cơ tim. Nước sắc Đỗ trọng tăng lượng nước tiểu đối với chuột bạch và tăng sức đối với cơ trơn của sừng tử cung và ruột.
Trong Bản thảo cương mục có ghi chép: “Bàng Nguyên Anh kể lại: Xưa có người thiếu niên mới lấy vợ bị bệnh yếu chân đi không được, uống các thuốc không khỏi, sau có lương y Tôn Lãm bắt mạch đoán rằng bệnh đó là do thận hư, cho uống Đỗ trọng chỉ trong 10 ngày là khỏi”. Dùng riêng Đỗ trọng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Liều dùng: ngày uống 5 - 12g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm với rượu.
Tại Liên Xô cũ từ năm 1951 đã công nhận Đỗ trọng là một vị thuốc chính thức để điều trị bệnh cao huyết áp. Dùng dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc rượu Đỗ trọng (20% trong rượu 300ml).
Theo Liên Xô cũ:
Cao lỏng Đỗ trọng: 25g; mỗi lần uống 15 - 30 giọt, ngày 2 - 3 lần.
Rượu Đỗ trọng:
15g mỗi lần dùng 15 - 30 giọt, ngày uống 2 - 3 lần.
Đơn thuốc trong đông y:
Chữa các bệnh sau khi sinh nở, thai không yên: Đỗ trọng (cạo vỏ, sắc) giã với táo đỏ Trung Quốc (táo tầu) viên bằng hạt đậu, ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 10 viên.
Hiện nay ở Việt Nam, ta đang khai thác vỏ một số cây với tên nam Đỗ trọng: Vỏ dày, tơ ít và ngắn hơn. Không phải vị Đỗ trọng nói ở trên. Cần nghiên cứu để xác định lại tên và giá trị chữa bệnh.
Theo các tài liệu cũ (Petelot, 1953) ở nước ta có khai thác vỏ cây cao su với tên Đỗ trọng Parameria glandulifera Benth thuộc họ Trúc đào Apocynaceae. Ngay ở Trung Quốc, một số tỉnh cũng dùng với tên Đỗ trọng vỏ một cây khác thuộc chi Evonymus hoặc Celastrus thuộc họ Vệ mâu Celastraceae.
Đỗ trọng là loài cây dược liệu đang phổ biến ở nhiều nơi. Tuy có nguồn gốc từ thiên nhiên nhưng Đỗ trọng có chỉ định, chống chỉ định và tác dụng phụ. Quý bạn đọc và người thân không nên tự ý sử dụng hoặc nghe theo bài thuốc kinh nghiệm. Quý bạn đọc hãy đến bác sĩ để hiểu rõ tình trạng cơ thể và tham vấn ý kiến. Hãy chia sẻ bài viết nếu thấy hữu ích. Chúng tôi mong muốn nhận được phản hồi cũng như sự quan tâm của quý bạn đọc ở bài viết khác.
https://tracuuduoclieu.vn/do-trong.html