Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Adenosine (Adenosin)
Loại thuốc
Thuốc chống loạn nhịp tim
Dạng thuốc và hàm lượng
Dung dịch tiêm: 6 mg/2 ml (tiêm tĩnh mạch), 12 mg/4 ml (tiêm tĩnh mạch), 30 ml (3 mg/ml) (truyền tĩnh mạch).
Adenosine là một chất làm giãn mạch mạnh ở hầu hết các mạch, ngoại trừ ở các tiểu động mạch hướng tâm thận và tĩnh mạch gan, nơi nó tạo ra sự co mạch.
Adenosine phát huy tác dụng dược lý thông qua việc kích hoạt các thụ thể purine (thụ thể adenosine A1 và A2 trên bề mặt tế bào).
Mặc dù cơ chế chính xác của việc kích hoạt thụ thể adenosine làm giãn cơ trơn mạch máu chưa được biết, nhưng có bằng chứng về việc ức chế dòng canxi đi vào, làm giảm hấp thu canxi và kích hoạt adenylate cyclase thông qua thụ thể A2 trong tế bào cơ trơn.
Adenosine có thể làm giảm trương lực mạch máu bằng cách điều chỉnh sự dẫn truyền thần kinh giao cảm.
Sự hấp thu nội bào của adenosine được thực hiện qua trung gian của một hệ thống vận chuyển nucleoside xuyên màng cụ thể. Bên trong tế bào, adenosine nhanh chóng được phosphoryl hóa bởi adenosine kinase thành adenosine monophosphate, hoặc bị khử bởi adenosine deaminase thành inosine.
Các chất chuyển hóa nội bào này của adenosine không có hoạt tính mạch.
Các nghiên cứu về ống thông Doppler nội mạch đã chứng minh rằng adenosine tiêm tĩnh mạch ở 140 µg/kg/phút tăng huyết mạch vành tối đa (so với papaverine nội mạch) trong khoảng 90% trường hợp trong vòng 2-3 phút sau khi bắt đầu truyền. Tốc độ dòng máu mạch vành trở lại mức cơ bản trong vòng 1-2 phút sau khi ngừng truyền adenosine.
Sự gia tăng lưu lượng máu do adenosine gây ra trong các động mạch vành bình thường nhiều hơn đáng kể so với trong các động mạch mỡ. Adenosine chuyển hướng lưu lượng máu mạch vành từ nội tâm mạc đến thượng tâm mạc và có thể làm giảm lưu lượng máu mạch vành do đó gây ra thiếu máu cục bộ.
Truyền liên tục adenosine ở người đã được chứng minh là làm giảm áp lực động mạch trung bình phụ thuộc vào liều lượng thấp và tác dụng chronotropic tích cực liên quan đến liều lượng, rất có thể là do kích thích giao cảm.
Sự khởi đầu của phản xạ tăng nhịp tim này xảy ra muộn hơn so với hiệu ứng chronotropic/dromotropic âm tính. Tác dụng khác biệt này hầu hết được quan sát thấy sau khi tiêm bolus, do đó giải thích tiềm năng sử dụng adenosine như một phương pháp điều trị loạn nhịp trên thất khi dùng dưới dạng bolus hoặc như một thuốc giãn mạch vành khi tiêm truyền.
Mặc dù tiêm truyền adenosine ảnh hưởng đến sự dẫn truyền của tim, nhưng nó đã được sử dụng một cách an toàn và hiệu quả khi có mặt của các thuốc liên quan đến tim mạch khác như thuốc chẹn beta adrenergic, thuốc đối kháng kênh canxi, nitrat, thuốc ức chế men chuyển, thuốc lợi tiểu, digitalis hoặc thuốc chống loạn nhịp tim.
Adenosin khi tiêm tĩnh mạch bị mất nhanh khỏi tuần hoàn do thuốc xâm nhập vào tế bào, chủ yếu vào hồng cầu và tế bào nội mô mạch máu.
Adenosine trong tế bào chuyển hóa nhanh do phosphoryl hóa thành adenosine monophosphat nhờ adenosinekinase hoặc do khử amin thành inosin nhờ adenosine desaminase trong bào tương.
Adenosine ngoài tế bào bị mất nhanh do xâm nhập vào tế bào với thời gian bán thải dưới 10 giây trong máu toàn phần.
Vì adenosine không cần có sự tham gia của chức năng gan hoặc thận để hoạt hóa hoặc bất hoạt, cho nên suy gan hoặc suy thận không có ảnh hưởng đến tính hiệu quả hoặc tính dung nạp của thuốc.
Thận trọng khi dùng đồng thời với các thuốc cũng có tác động làm chậm dẫn truyền nhĩ thất như digoxin hay verapamil vì có thể gây suy tâm thu hoặc rung thất, tuy hiếm gặp. Các thuốc khác cũng có tác động trên tim như chẹn beta-adrenergic, chẹn kênh calci, ức chế men chuyển dạng angiotensin, quinidin nên được lưu ý khi dùng đồng thời với adenosine vì có tác dụng hiệp đồng trên nút xoang và nút nhĩ thất.
Dipyridamol phong bế adenosine vào tế bào, nên làm tăng tác dụng của adenosine. Nếu cần phối hợp phải giảm liều adenosine.
Nicotin có thể tăng tác dụng tuần hoàn của adenosine. Các methylxanthin như theophylin và cafein là những chất ức chế mạnh adenosine. Khi cần phối hợp, phải tăng liều adenosine. Tránh dùng thức ăn hay đồ uống có chứa cafein 12 đến 24 giờ trước khi dùng adenosine trong kĩ thuật xạ hình cơ tim.
Nên tránh thực phẩm và đồ uống có chứa xanthines (trà, cà phê, sô cô la và cola) ít nhất 12 giờ trước khi sử dụng adenosine.
Liều khởi đầu là 6 mg tiêm nhanh tĩnh mạch trong 1 - 3 giây (3 mg nếu tiêm vào tĩnh mạch trung tâm). Nếu không có hiệu quả trong vòng 1 - 2 phút, lại tiêm tĩnh mạch nhanh 12 mg và lặp lại 1 lần nếu cần. Liều dùng một lần cao hơn 12 mg không được khuyến cáo.
Khi cần phải dùng đồng thời với dipyridamol, giảm liều adenosine xuống một phần tư so với liều dùng thông thường.
Bệnh nhân ghép tim thường rất nhạy cảm với tác dụng của adenosine, nên đưa liều khởi đầu là 3 mg trong 2 giây, nếu cần, đưa tiếp 6 mg sau 1 - 2 phút và từ đó có thể dùng 12 mg sau 1 - 2 phút.
Để chẩn đoán phân biệt nhịp nhanh trên thất: Dùng chế độ liều tương tự như trên. Bắt đầu với liều 3 mg, tiếp theo dùng liều 6 mg và sau đó dùng liều 12 mg sau mỗi 1 - 2 phút nếu cần.
Trong kĩ thuật xạ hình cơ tim: Truyền tĩnh mạch liên tục với liều 140 microgam/kg/phút trong 6 phút, tổng liều là 0,84 mg/kg. Dược chất phóng xạ (thali clorid TI 201) sẽ được tiêm vào thời điểm giữa quá trình truyền adenosine, ví dụ, sau khi bắt đầu truyền 3 phút.
Công thức tính tốc độ truyền tĩnh mạch adenosine dựa vào trọng lượng cơ thể:
Tốc độ truyền dịch (ml/phút) = 0,140 (mg/kg/phút) × trọng lượng cơ thể (kg) với nồng độ adenosine (3 mg/ml).
Trẻ em < 50 kg:
Liều khởi đầu là 0,05 - 0,1 mg/kg tiêm tĩnh mạch, nếu không chuyển biến sau 1 - 2 phút, lại tăng liều tiếp 0,05 - 0,1 mg/kg đến khi nhịp nút xoang được thiết lập hoặc liều đơn tối đa 0,3 mg/kg (liều đơn không quá 12 mg).
Trẻ em ≥ 50 kg:
Liều khởi đầu 6 mg. Nếu không có kết quả trong 1 - 2 phút, có thể dùng liều 12 mg và lặp lại 1 lần, nếu cần. Liều đơn tối đa 12 mg.
Cấp cứu tim mạch hiện nay trong nhi khoa:
Liều khởi đầu 0,1 mg/kg (liều đơn tối đa 6 mg) tiêm nhanh tĩnh mạch để điều trị loạn nhịp nhanh trên thất. Nếu cần, 1 liều thứ hai 0,2 mg/kg (liều đơn tối đa 12 mg).
Nóng bừng mặt, hạ huyết áp, block nhĩ thất, khó thở, cảm giác ngực bị ép, buồn nôn, nhức đầu, hơi choáng váng, hoa mắt chóng mặt, tê cóng, khó chịu ở cổ, họng, hàm, khó chịu ở chi trên, dị cảm.
Suy tâm thu (kéo dài), rung nhĩ, chậm nhịp, co thắt phế quản, nhìn mờ, cảm giác rát bỏng, tăng huyết áp (tạm thời), phản ứng tại chỗ tiêm, tăng áp lực nội sọ, có vị kim loại, ngừng thở, động kinh, xoắn đỉnh, rung tâm thất, chậm nhịp thất.
Rung nhĩ, nhịp tim chậm nghiêm trọng, tăng huyết áp nội sọ, co thắt phế quản, phản ứng tại chỗ viêm.
Suy hô hấp, ngừng thở/ngừng hô hấp, mất ý thức, co giật.
Không ảnh hưởng
Nếu quên dùng một liều thuốc, hãy uống càng sớm càng tốt khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và uống liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không uống gấp đôi liều đã quy định.
Quá liều và độc tính
Dùng quá liều sẽ gây hạ huyết áp nghiêm trọng, nhịp tim chậm hoặc không tâm thu.
Cách xử lý khi quá liều
Thời gian bán hủy của adenosine trong máu rất ngắn và các tác dụng phụ (khi chúng xảy ra) sẽ nhanh chóng được xử lý. Có thể cần dùng aminophylline IV hoặc theophylline.
Đánh giá dược động học chỉ ra rằng methyl xanthin là chất đối kháng cạnh tranh với adenosine, và nồng độ điều trị của theophylline ngăn chặn các tác dụng ngoại sinh của nó.
EMC: https://www.medicines.org.uk/emc/product/1436/smpc
Dược thư Quốc gia Việt Nam 2015
Drugs.com: https://www.drugs.com/mtm/adenosine.html