Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Benzylpenicillin (Penicillin G)
Loại thuốc
Kháng sinh nhóm beta - lactam
Dạng thuốc và hàm lượng
Thuốc Benzylpenicillin dùng ở dạng muối benzylpenicilin natri và benzylpenicilin kali
Dạng thuốc bột tan trong nước để tiêm: 500 000 đơn vị (IU), 1 triệu UI và 5 triệu UI
Trong nhiều nước, liều được biểu thị dưới dạng đơn vị: 600 mg, 1200 mg benzylpenicillin natri hoặc 600 mg benzylpenicillin kali
Thuốc Benzylpenicilin được chỉ định trong hầu hết các vết thương, nhiễm trùng da sinh mủ, nhiễm trùng mô mềm và các nhiễm khuẩn ở mũi, họng, xoang mũi, đường hô hấp và tai giữa.
Thuốc cũng được chỉ định cho các trường hợp nhiễm trùng do vi khuẩn nhạy cảm với penicillin: Nhiễm trùng toàn thân, nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm mủ huyết, viêm tủy xương cấp và mạn, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, viêm màng não.
Nghi ngờ mắc bệnh não mô cầu. Hoại thư sinh hơi, bệnh uốn ván, bệnh nhiễm Actinomyces, bệnh than, bệnh xoắn khuẩn vàng da, sốt do chuột cắn, bệnh nhiễm Listeria, bệnh Lyme nặng và phòng ngừa nhiễm trùng liên cầu nhóm B ở trẻ sơ sinh.
Các biến chứng thứ phát sau bệnh lậu và giang mai (ví dụ như viêm khớp hoặc viêm màng trong tim do lậu cầu, giang mai bẩm sinh và giang mai thần kinh). Bạch hầu, áp xe não và tụ huyết trùng. Viêm phổi nặng do Pneumococcus.
Khi chỉ định cần tham khảo phần “Dược lực học và dược động học” và điều trị dựa theo kết quả kháng sinh đồ, các hướng dẫn sử dụng kháng sinh và đáp ứng lâm sàng.
Thuốc Benzylpenicilin hay penicilin G là kháng sinh nhóm beta - lactam. Penicilin G diệt khuẩn bằng cách ức chế sự tổng hợp thành tế bào vi khuẩn. Penicilin G có tác dụng tốt với cầu khuẩn gram dương, bao gồm cả Streptococcus nhóm B.
Phần lớn các vi khuẩn kỵ khí khá nhạy cảm với penicilin G gồm Clostridium spp., Fusobacterium spp. và Actinomyces israelii, trừ Bacteroides fragilis.
Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) và những loài Treponema nhiệt đới, Leptospira và Actinomyces thường nhạy cảm với penicilin G.
Ngay cả những vi khuẩn gây ra độc tố như Corynebacterium diphtheriae, các vi khuẩn hoại thư, vi khuẩn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người như Cytocapnophagia canimorsis (bị nhiễm do chó cắn), cũng nhạy cảm với penicilin G.
Penicilin G thường có tác dụng tốt với Streptococcus pyogenes (nhóm A), Streptococcus viridans, S. bovis và Staphylococcus aureus nhạy cảm với penicilin (tuy nhiên, sự nhạy cảm của Staphylococcus aureus với penicilin hiện nay đang bị giảm).
Các cầu khuẩn Enterococcus kém nhạy cảm và đôi khi kháng hoàn toàn.
Các vi khuẩn kháng peniculin G do tiết beta - lactamase bao gồm: Gonococcus, Haemophilus influenzae. Vi khuẩn đề kháng bằng có chế này có thể được hạn chế bằng cách dùng kết hợp với những chất ức chế được beta - lactamase như acid clavulanic, tazobactam hoặc sulbactam.
Do hiện nay các loài vi khuẩn Pneumococcus kháng penicilin G đã tăng lên. Sự kháng của Pneumococcus với penicilin là do có sự thay đổi của các protein liên kết penicilin (PBP).
Tất cả các kháng sinh beta-lactam có tác dụng bằng cách liên kết với những protein này, nên dường như mọi kháng sinh nhóm này đều bị kháng. Một số loài Pneumococcus kháng penicilin cũng kháng cephalosporin thế hệ III.
Ở Việt Nam, theo chiều hướng kháng thuốc và do khó duy trì nồng độ cao trong dịch não tủy, nên hiện nay penicilin G không được dùng để điều trị viêm màng não mủ do Pneumococcus nữa.
Với người bệnh có vi khuẩn kháng mức độ trung bình, cần thay thế bằng các cephalosporin thế hệ III như ceftriaxon hoặc cefotaxim. Với người bệnh có vi khuẩn kháng mức độ cao, nên dùng vancomycin phối hợp với cephalosporin thế hệ III.
Điều trị viêm màng não do Haemophilus influenzae loại B cũng phải xét đến sự kháng thuốc do vi khuẩn tạo beta - lactamase.
Một số nghiên cứu cho thấy các cephalosporin thế hệ III, đặc biệt cefotaxim hoặc ceftriaxon cũng có hiệu quả như khi phối hợp penicilin và cloramphenicol.
Do vậy, điều trị viêm màng não nhiễm khuẩn cho trẻ em cần tùy theo từng trường hợp nhưng không nên dùng cefuroxim.
Viêm màng não do Neisseria vẫn thường được điều trị bằng penicilin G, nhưng hiện nay các vi khuẩn Meningococcus kháng penicilin G cao rất phổ biến. Sự kháng này là do giảm ái lực của penicilin với protein liên kết penicilin (PBP).
Ceftriaxon thường được chọn làm thuốc đầu tiên thay thế penicilin.
Bằng cách liên kết với các protein gắn với penicillin cụ thể (PBPs) nằm bên trong thành tế bào vi khuẩn, penicillin G ức chế giai đoạn thứ ba và cuối cùng của quá trình tổng hợp thành tế bào vi khuẩn.
Sự ly giải tế bào sau đó được trung gian bởi các enzyme tự động của thành tế bào vi khuẩn như autolysin; có thể penicillin G can thiệp vào chất ức chế autolysin.
Sau khi dùng tiêm bắp liều đơn 600 mg, Cmax đạt khoảng 12 microgam/ml trong vòng 15 - 30 phút. Sau khi tiêm tĩnh mạch liều 3 g benzylpenicilin, Cmax đạt được khoảng 300 - 400 microgam/ml.
Benzylpenicilin phân bố rộng với nồng độ khác nhau trong các mô và dịch cơ thể. Thuốc Benzylpenicilin phân tán qua nhau thai vào tuần hoàn thai và một lượng nhỏ xuất hiện trong sữa.
Thuốc thấm tốt hơn qua các mô bị viêm, tỷ lệ thuốc trong dịch não tủy ở người màng não bình thường < 1% và ở màng não viêm là 2 - 6%. Khoảng 60% thuốc gắn với protein huyết tương.
Thuốc chuyển hóa ở gan (khoảng 30%) thành acid peniciloic.
Thời gian bán thải khoảng 30 - 50 phút ở người bình thường và kéo dài hơn ở trẻ sơ sinh và người cao tuổi vì chức năng thận giảm, khoảng 7 - 10 giờ ở người bệnh suy thận và trong trường hợp suy cả gan và thận, thời gian bán thải có thể kéo dài đến 20 - 30 giờ.
Thuốc Benzylpenicilin có thể loại được bằng thẩm tách máu.
LD 50 đường uống ở chuột là 8900 mg / kg [MSDS].
Phản ứng bất lợi về thần kinh, bao gồm co giật, có thể xảy ra khi đạt được nồng độ beta-Lactam cao. Giảm bạch cầu trung tính có thể xảy ra nếu dùng liều cao liên tục trong hơn 2 tuần.
Dùng đồng thời các kháng sinh kìm khuẩn (như erythromycin, tetracyclin) có thể làm giảm tác dụng diệt khuẩn của penicilin.
Nồng độ penicilin trong máu có thể kéo dài khi dùng đồng thời với probenecid.
Cimetidin có thể làm tăng khả dụng sinh học của penicilin.
Aspirin, indomethacin, phenylbutazon, sulfaphenazol và sulfinpy- razon kéo dài thời gian bán thải của benzyl penicilin một cách có ý nghĩa.
Cloramphenicol có thể làm giảm tác dụng của penicilin trong điều trị viêm màng não do Pneumococcus.
Tránh dùng đồng thời thuốc benzylpenicilin với vắc xin BCG.
Sự thải methotrexat ra khỏi cơ thể có thể bị giảm rõ rệt do dùng đồng thời với penicilin.
Nên dùng riêng thuốc benzylpenicillin natri và các dung dịch có chứa ion kim loại.
Benzylpenicillin natri không nên được dùng trong cùng một ống tiêm/bộ tiêm truyền với các thuốc như amphotericin B, cimetidine, cytarabine, flucloxacillin, hydroxyzine, methylprednisolone, promethazine hay gentamicin (nhóm aminoglycosid).
Trong trường hợp không có các nghiên cứu về tính tương thích, sản phẩm thuốc này không được trộn lẫn với các sản phẩm thuốc khác
Dị ứng với các penicillin hoặc bất cứ thành phần nào của thuốc.
Tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền: 0,6 - 1,2 g cách 6 giờ/lần, tăng lên nếu cần trong nhiễm khuẩn nặng hơn (chỉ dùng đường tĩnh mạch nếu liều đơn độc trên 1,2 g).
Viêm nội tâm mạc (phối hợp với 1 kháng sinh khác nếu cần): Tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền: 1,2 g cách 4 giờ/lần, tăng lên nếu cần tới 2,4 g cách nhau 4 giờ/lần.
Viêm màng não, bệnh não mô cầu: tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền tĩnh mạch 2,4 g cách 4 giờ/lần.
Cho 1 liều duy nhất thuốc benzylpenicilin (1,2 g) trước khi chuyển người bệnh vào bệnh viện cấp cứu nếu nghi ngờ bệnh não mô cầu hay viêm màng não do não mô cầu (trường hợp không thể chuyển cấp cứu vào bệnh viện ngay).
Bệnh than: Người lớn (phối hợp với các kháng sinh khác): Tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền tĩnh mạch 2,4 g cách 4 giờ/lần.
Dự phòng trong khi đẻ chống nhiễm khuẩn liên cầu nhóm B: Tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền tĩnh mạch ban đầu 3 g sau đó 1,5 g cách 4 giờ/lần cho tới khi sinh.
Khuyến cáo dùng đường tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Viêm nội tâm mạc (phối hợp với 1 kháng sinh khác nếu cần):
Tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền tĩnh mạch:
Viêm màng não, bệnh não mô cầu:
Cho 1 liều duy nhất thuốc benzylpenicilin trước khi chuyển người bệnh vào bệnh viện cấp cứu nếu nghi ngờ bệnh não mô cầu hay viêm màng não do não mô cầu (trường hợp không thể chuyển cấp cứu vào bệnh viện ngay):
Giảm liều. Liều cao có thể gây co giật, hôn mê.
Ngoại ban, viêm đại tràng màng giả, phản ứng viêm tĩnh mạch nơi tiêm, viêm tĩnh mạch huyết khối.
Tăng bạch cầu ái toan, mày đay.
Phản ứng phản vệ, thiếu máu tán huyết, giảm bạch cầu.
Có thể thấy những triệu chứng của não như động kinh, đặc biệt ở những người bệnh có chức năng thận giảm và liều dùng hàng ngày trên 18 g với người lớn. Nồng độ thuốc cao trong dịch truyền có thể gây viêm tĩnh mạch huyết khối.
Dùng thuốc benzylpenicilin natri liều cao ồ ạt có thể dẫn đến giảm kali huyết và đôi khi tăng natri huyết.
Với người bệnh suy giảm chức năng thận, dùng liều cao (trên 8 g/ ngày/người lớn) có thể gây kích ứng não, co giật và hôn mê.
Tuyệt đối thận trọng với người có tiền sử dị ứng với penicilin và cephalosporin.
Thận trọng với người bệnh suy giảm chức năng thận, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và người cao tuổi.
Với người suy tim, cần chú ý đặc biệt.
Có thể xảy ra quá mẫn với da khi tiếp xúc với kháng sinh, nên thận trọng tránh tiếp xúc với thuốc.
Cần phát hiện xem người bệnh có tiền sử dị ứng không, đặc biệt dị ứng với thuốc. Thận trọng đặc biệt khi dùng benzylpenicilin liều cao cho người bị động kinh.
Không thấy có khuyết tật hoặc tác dụng có hại trên bào thai. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu đầy đủ và có kiểm tra kỹ trên người mang thai để có thể kết luận loại trừ những tác dụng có hại của thuốc trên bào thai. Chỉ dùng thuốc benzylpenicilin cho người mang thai khi thật cần.
Penicilin bài tiết qua sữa. Nên thận trọng khi dùng trong thời kỳ cho con bú.
Chưa có báo cáo.
Thuốc dùng đường tiêm. Tham vấn với nhân viên y tế nếu nghi ngờ quên liều thuốc Benzylpenicillin.
Quá liều và độc tính
Nồng độ thuốc trong máu quá thừa có thể gây phản ứng có hại tới thần kinh như co giật, liệt và có thể tử vong.
Cách xử lý khi quá liều Benzylpenicillin
Phải ngừng dùng thuốc Benzylpenicillin, điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ (khi cần thiết).