Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Cây lá gan có tên khoa học là Premna corymbosa Rottl. ex Willd., thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây lá gan là một loại cây thân thuộc của người dân Việt Nam, ngoài việc được dùng như một loại rau ăn hàng ngày, cây lá gan còn được sử dụng từ lâu trong điều trị các bệnh lý như rối loạn tiêu hoá, sốt, lỵ, tiểu tiện khó, viêm gan,… Trong y học chứng cứ, cây lá gan ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh tác dụng của nó như chống viêm, bảo vệ gan, chống oxy hoá, lợi sữa,…
Tên Tiếng Việt: Cây lá gan.
Tên khác: Vọng cách, cây cách, cách núi, bọng cách, headache tree (Anh), bois de boue (Pháp).
Tên khoa học: Premna corymbosa Rottl. ex Willd., premna integrifolia Roxb., premna obtusifolia R. Br.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Cây lá gan là cây nhỡ, cao khoảng 5 đến 7m. Cành non có hình dạng vuông, đôi khi có lông mịn và gai, cành già nhẵn, có rãnh và lỗ bì, màu nâu đỏ. Lá mọc đối nhau, hình trái xoan, dài khoảng từ 14 đến 16cm, rộng khoảng từ 10 đến 12cm, gốc hơi hình tim hay tròn, đầu có mũi nhọn ngắn hay tù, mặt trên nhẵn bóng, gân lá hằn rõ, mặt dưới lá màu nhạt hơn, có lông mịn trên các gân, mép lá nguyên hoặc có khía răng ở đầu lá. Khi vò lá ra có mùi thơm như chanh.
Cụm hoa của cây lá gan mọc ở đầu cành thành ngù dài khoảng từ 10 đến 18cm, có lông mịn, lá bắc nhỏ có dạng lá, hoa màu hơi xanh lục hay màu trắng, đài có lông và tuyến, chia 2 môi, môi dưới nguyên hoặc có khoảng 2 đến 3 răng rất nhỏ, môi trên xẻ 2 thuỳ hoặc nguyên, tràng có lông ở mặt ngoài, ống có hình trụ, chia 2 môi, môi dưới có 3 thuỳ tròn, môi trên có 2 thuỳ gần bằng nhau. Nhị 4, chỉ nhị đính ở họng tràng, hơi thò ra ngoài, bầu nhẵn.
Quả hạch, hình trứng hoặc hình cầu, có màu đen.
Mùa hoa quả: Tháng 5 đến tháng 8.
Chi Premna L. có khoảng 200 loài trên thế giới, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Phi, châu Á và châu Đại Dương. Ở Việt Nam có 15 loài, trong đó 4 - 5 loài được dùng làm thuốc. Cây lá gan phân bố từ Ấn Độ đến Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây lá gan là loài cây tương đối quen thuộc đối với người dân ở vùng đồng bằng và trung du. Cây phân bố rải rác từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương đến Nam Bộ và đảo Phú Quốc.
Cây lá gan là cây bụi ưa sáng, ưa ẩm nhưng cũng có thể hơi chịu hạn, thường mọc lẫn với nhiều loại cây bụi khác ngay ở quanh làng, dọc theo các bờ kênh mương, đồi cây bụi và bờ nương rẫy. Cây thường xanh do mọc chồi và ra lá non gần như quanh năm. Tuy nhiên, mùa sinh trưởng mạnh lại vào vụ xuân - hè. Cây lá gan ra hoa kết quả nhiều, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Cây còn có khả năng tái sinh chồi khoẻ sau khi bị chặt đốn. Ở một số địa phương, nhân dân còn trồng cây lá gan ở vườn nhà, để lấy lá non làm rau gia vị.
Bộ phận sử dụng được của cây lá gan là toàn bộ cây, rễ, vỏ rễ, thân và lá.
Các nghiên cứu hoá thực vật cho thấy trong vỏ thân cây lá gan có chứa premnine, ganiarine, nhựa, spermine, alphandrine, tannin, betulin và beta-sitosterol. Trong lá cây lá gan chứa beta-sitosterol và luteolin. Betulin và beta-sitosterol trong thân cây. Và hydroalcaholic trong rễ cây.
Theo Đông y, cây lá gan có vị đắng, hăng, có mùi thơm, tính mát, có tác dụng lợi cho tiêu hoá, trị sốt.
Trong y học dân gian Đông Nam Á, cây lá gan được dùng làm thuốc lợi tiểu, trị phù, thuốc gây trung tiện, trị tiêu chảy, bổ dạ dày, viêm phế quản, thấp khớp, nhức đầu và thuốc bổ cho phụ nữ sau khi đẻ. Lá và rễ cây lá gan được dùng ở các nước Đông Dương làm thuốc lợi tiểu, bổ dạ dày và hạ sốt.
Ở Indonesia, nước sắc lá cây lá gan là thuốc lợi sữa và chữa thấp khớp. Ở Malaysia, nước sắc rễ và lá có tác dụng hạ sốt. Ở Ấn độ, rễ cây lá gan được dùng để nhuận tràng, lợi dạ dày, trợ tim, bổ và có trong thành phần của chế phẩm thuốc cổ truyền Ấn Độ Dasamula trị sốt dai dẳng. Lá có tác dụng gây trung tiện, lợi sữa, và nấu cháo ăn để bổ dạ dày. Nước sắc lá cây lá gan dùng trị cơn đau bụng, đầy hơi, nước sắc cây non trị thấp khớp đau dây thần kinh.
Chống viêm
Năm 2011, Mkarthikeyana và cộng sự thực hiện nghiên cứu để đánh giá tác dụng của chiết xuất ethanol của cây lá gan ở liều 200 và 400mg/kg trọng lượng cơ thể trong các mô hình viêm cấp tính và mạn tính ở chuột. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở các mô hình cấp tính albumin trứng gây phù chân, chiết xuất ethanol của cây lá gan đã ức chế đáng kể sự hình thành phù. Trong mô hình mạn tính, viên cotton gây ra sự hình thành u hạt ở chuột, chiết xuất ethanol của cây lá gan làm giảm đáng kể sự hình thành u hạt với tỷ lệ ức chế lần lượt là 35,17% và 50,38%.
Bảo vệ gan
KarthikeyanMa và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu về hoạt động bảo vệ gan của lá cây lá gan chống lại tổn thương gan do carbon tetrachloride (CCl4). Nghiên cứu được thực hiện bằng cách gây mô hình độc tính trên gan ở chuột Wistar ở cả hai giới bằng cách tiêm phúc mô CCl4, 1mL/kg trọng lượng cơ thể trong mỗi 72 giờ. Chiết xuất ethanol của lá cây lá gan được dùng với liều 200 và 400mL/kg trọng lượng cơ thể, cho uống hàng ngày trong 14 ngày.
Kết quả cho thấy khi xử lý bằng chiết xuất ethanol của lá cây lá gan, tác dụng gây độc của CCl4 được kiểm soát đáng kể bằng cách phục hồi mức độ các thông số sinh hóa so với nhóm được điều trị bằng thuốc silymarin thông thường và tiêu chuẩn. Trọng lượng gan đã giảm nhờ các nhóm được điều trị bằng chiết xuất ethanol của lá cây lá gan. Mô bệnh học của các phần gan cũng đã chứng minh hoạt động bảo vệ gan.
Chống oxy hoá
Nghiên cứu năm 2012 của Varikkasseri Neelakandhan Shilpa và cộng sự nhằm điều tra hoạt động chống oxy hóa invivo của chiết xuất ethanol từ rễ cây lá gan chống lại stress oxy hóa do streptozotocin gây ra ở các cơ quan khác nhau (gan, thận, não, tim và tụy) của chuột.
Chiết xuất ethanol của rễ cây lá gan được dùng bằng đường uống (200mg/kg trọng lượng cơ thể). Kết quả cho thấy sự gia tăng đáng kể các hoạt động của superoxide effutase, catalase, glutathione peroxidase, glutathione-S-transferase và giảm glutathione đã được quan sát thấy ở các cơ quan khác nhau của chuột mắc bệnh đái tháo đường khi điều trị bằng chiết xuất từ rễ cây lá gan với liều 200mg/kg trọng lượng cơ thể và glibenclamide trong 30 ngày điều trị.
Cả hai nhóm được điều trị đều cho thấy mức độ peroxid hóa lipid giảm đáng kể, cho thấy vai trò của nó trong việc bảo vệ chống lại tổn thương màng tế bào do peroxid hóa lipid. Cây lá gan có tiềm năng chống oxy hóa có thể được sử dụng cho mục đích điều trị chủ yếu là ngăn ngừa tổn thương oxy hóa xảy ra trong bệnh đái tháo đường.
Lợi sữa
Việc cung cấp sữa mẹ cho trẻ sơ sinh đã được chứng minh là có nhiều lợi ích hơn so với sữa công thức, sữa mẹ có thể giúp cho trẻ có một cơ thể khỏe mạnh và phát triển toàn diện. Hiện nay, vẫn còn nhiều bà mẹ cho con bú ít sữa và thiếu sáng kiến dựa vào cây thuốc gia đình để khắc phục tình trạng thiếu sữa.
Nghiên cứu của Farhany Diah Rahayu và cộng sự nhằm xác định tác dụng của lá cây lá gan đối với việc tăng tạo sữa ở các bà mẹ đang cho con bú. Các tác giả đã kết luận rằng lá cây lá gan có tác dụng rõ rệt đến độ mịn và tăng tiết sữa ở các bà mẹ đang cho con bú tại UPT Puskesmas Tanjung Redeb (Indonesia).
Lá cây lá gan để chữa lỵ, dùng lá tươi (30 - 40g), rửa sạch, vò nát, hoà với ít nước đun sôi để nguội, vắt lấy nước cốt, thêm chút đường, uống. Trẻ em dùng nửa liều. Có thể dùng lá phơi khô hay sao vàng sắc uống.
Lá cây lá gan còn được dùng chữa phạm phòng, phát sốt, viêm gan, co thắt sau khi giao hợp, với liều 30 - 40g, sắc uống.
Rễ cây lá gan chữa đau bụng, ăn không tiêu, sốt, với liều 20g, sắc uống.
Chữa kiết lỵ
Lá cây lá gan tươi (30 đến 40g), rửa sạch, vò nát, thêm ít nước lã đun sôi để nguội. Khuấy đều. Vắt lấy nước, thêm tí đường cho ngọt mà uống. Ngày uống một chén khoảng 30 đến 40ml, trẻ em dùng nửa liều. Có thể hái lá phơi khô hay sao vàng sắc uống.
Lợi sữa
Mỗi ngày dùng 30 đến 40g lá tươi hoặc 15 đến 20g rễ cây lá gan, sắc uống.
Một số lưu ý khi sử dụng cây lá gan: