Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu

Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm

Long Châu
  1. /
  2. Dược liệu/
  3. Cỏ cà ri (Hạt và Lá)

Cây Cỏ Cà ri: Thảo dược Đông Y giúp ôn thận, trừ hàn thấp

Ngày 09/04/2023
Kích thước chữ

Cỏ Cà ri là cây thuốc có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải (Châu Âu) và Bắc Phi. Hạt cỏ Cà ri được dùng làm thuốc bổ tổng hợp, đặc biệt đối với thận để chữa phù thũng, ung nhọt, áp xe và chín má.

Nội dung chính

Tìm hiểu chung

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Cỏ Cà ri.

Tên khác: Khổ đậu; Hồ lô ba; fenugreek seed.

Tên khoa học: Trigonella foenum - graecum L.

Đặc điểm tự nhiên

Cây thảo hàng năm mọc thẳng, cao 30cm. Thân hình trụ, rễ cái phát triển.

Lá mọc so le, 3 lá chét hình trứng, dài 1 - 3,5cm, rộng 0,5 - 1,5cm, gốc thuôn hẹp, đầu tròn, mép có răng ở gần đầu; cuống lá dài 1,5 - 2cm; lá ít nhọn.

Hoa đơn độc hay mọc xen kẽ ở nách lá, có lông, màu vàng hay trắng, lá đài có lông, có răng, tràng hoa dài gấp đôi đài hoa.

Quả hình trụ, thẳng, đỉnh hơi cong, dài 10 - 12cm, rộng 4 -5 mm, nhẵn, hạt nhiều, hình thoi dẹt, màu nâu nhạt, mùi thơm.

Mùa hoa quả: Tháng 5 - 8.

Cỏ cà ri
Cây cỏ Cà ri

Phân bố, thu hái, chế biến

Chỉ có một loài Cỏ Cà ri trong chi Trigonella L. ở Việt Nam. Nó mọc tự nhiên ở khu vực Địa Trung Hải (Châu Âu) và Bắc Phi, sau đó được trồng để làm thức ăn cho gia súc, cũng như làm lớp phủ và cải tạo đất. Cây được nhập về Việt Nam vào năm 1978 từ Liên Xô. Hạt giống được thu hoạch thông qua trồng thử nghiệm tại Đà Lạt (Trạm Nghiên cứu Dược liệu Lim Dong) và Nhà máy Dược phẩm Phạm Dian (Viện Nghiên cứu Y học). Nhưng sau đó, không rõ tại sao nó không phát triển. Hiện loài này đã biến mất ở Việt Nam.

Là loại cây ưa sáng, khí hậu mát ẩm vùng núi. Cây do Trại thuốc Văn Điển trồng cũng vào vụ đông xuân khi nhiệt độ thấp, mùa hè nhiệt độ cao thì quả già. Như chúng ta đã biết, ở Trung Quốc, rất nhiều cỏ Cà ri cũng được trồng để làm thuốc.

Bộ phận sử dụng

Hạt và lá.

Cỏ cà ri dược liệu
Hoa cỏ Cà ri

Thành phần hoá học

Cả lá và hạt đều chứa tinh dầu thơm, có mùi dễ bay hơi. Hạt chứa 20 - 25% protein, 70% lipid. Hạt non chứa các carbohydrate trọng lượng phân tử thấp như glucose, inositol, fructose, galactitol, stachyose, galactose và raffinose [Nguyên liệu dồi dào ở Ấn Độ, 1976]. Theo Bailey R. (Phytochem, 1970), có hai loại đường có trọng lượng phân tử cao hơn trong hạt là mullein (6G-6α-galactosyl-3-sucrose và galactosyl-inositol và 15% galactomannan) thuộc nhóm polysaccharide.

Thành phần protein bao gồm: Lysine, arginine, histidine, tyrosine, alanine, phenylalanine, leucine, aspartic acid, glutamic acid, serine, glycine, threonine và Proline. Các axit béo có vị hơi đắng bao gồm: Axit palmitic, behenic, stearic, arachidic, oleic, linoleic và linolenic.

Theo Phạm Hoàng Hộ (2006), toàn cây có chứa axit p-coumaric, luteolin và nhiều chất có tác dụng hạ đường huyết.

Cỏ cà ri có tác dụng hạ đường huyết
Cỏ Cà ri có tác dụng hạ đường huyết

Công dụng

Theo y học cổ truyền

Cỏ Cà ri có vị đắng, tính ấm, có tác dụng bổ thận, trừ lạnh.

Hạt cỏ Cà ri được dùng làm thuốc bổ tổng hợp, đặc biệt là thuốc bổ thận chữa phù thũng. Dùng ngoài, hạt nghiền thành bột, thêm nước làm bột nhão để chữa mụn nhọt, áp xe.

Để chữa chín, lấy ngọn và hoa của cánh hoa tươi, hơ trên lửa, để nước bay hơi, làm mềm lá và hoa, cho vào phần chín khi còn nóng rồi gói lại. Hạt khô có thể được sử dụng, tán bột, thêm nước luyện, đắp vào vết thương, rồi băng lại.

Lá được dùng để làm rau ăn hoặc dùng làm thức ăn cho gia súc.

Ở Trung Quốc, bầu được dùng để chữa các chứng thận yếu, đau dạ dày, đau ruột, rối loạn tiêu hóa, đi lại khó khăn [Y học cổ truyền, 1999; 516], làm mềm và dịu bàn tay và mỗi khi nứt nẻ. Gần đây hơn, nó cũng được sử dụng để giảm cholesterol trong huyết tương và hỗ trợ chức năng gan và thận, kích thích tiết sữa và làm cho ngực trông tròn hơn [Kee, 199: 126].

Ở Ấn Độ, hạt được dùng để nhuận tràng, chữa đau bụng, đầy hơi, trĩ, chữa lỵ, kiết lỵ, đặc biệt dùng chữa ỉa chảy ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, tẩy giun cho trẻ em, chữa ăn uống không tiêu, chán ăn, lười vận động, điều trị bệnh đậu mùa, phù nề gia đình mãn tính, gan to, lách to; làm thuốc bổ, điều trị giảm cân, kích thích tình dục, làm đồ uống giải khát [Kirtikar, 1998, 1; 700: Chopra, 2001: 248).

Theo y học hiện đại

Tác dụng chống đái tháo đường

Tác dụng hạ đường huyết của hạt cỏ Cà ri trong bệnh tiểu đường lâm sàng ở động vật và người đã được nghiên cứu rộng rãi (AI - Habbori và cộng sự, 1998).

Tác dụng hạ đường huyết

Tác dụng hạ đường huyết của hạt và lá cỏ Cà ri đã được nghiên cứu ở thỏ bình thường bằng cách sử dụng thử nghiệm dung nạp glucose, và các phần alkaloid được phát hiện có tác dụng hạ đường huyết đáng kể (Jain và cộng sự, 1987).

Chất chiết xuất từ ​​nước và methanolic của hạt cỏ Cà ri được dùng cho chuột với liều 1g/kg và tạo ra tác dụng hạ đường huyết đáng kể (Zia và cộng sự, 2001). Một màn hình của 45 cây thuốc vẫn được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường ở Ấn Độ (Grover và cộng sự, 2002) và một đánh giá của các nghiên cứu từ năm 2001 đến 2005 (Jung và cộng sự, 2006) cho thấy cỏ ca ri làm giảm lượng đường trong máu và chống tăng đường huyết trong động vật hoặc người mắc bệnh tiểu đường loại 2.

Giảm cholesterol trong máu và lipid máu

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng hạt cỏ Cà ri có tác dụng làm giảm cholesterol.

Tác dụng chống oxy hóa

Chiết xuất hạt cỏ Cà ri giàu polyphenol có khả năng bảo vệ chống lại quá trình oxy hóa H2O2 trong hồng cầu ở bệnh nhân bình thường và bệnh nhân tiểu đường.

Thực nghiệm tác dụng chống ung thư

Tác dụng chống ung thư của ethanol từ hạt cỏ Cà ri đã được nghiên cứu trên mô hình chuột bị cổ trướng. Liều tiêm trong phúc mạc với hàm lượng cao này ức chế sự phát triển của cổ trướng trước và sau khi cấy cổ trướng lên 70% so với đối chứng.

Giảm đau

Chiết xuất lá cỏ Cà ri có tác dụng giảm đau đáng kể.

Ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa

Hạt cỏ Cà ri và saponin steroid chiết xuất từ ​​hạt cỏ Cà ri làm tăng tiêu thụ thức ăn.

Liều dùng & cách dùng

Hạt cỏ Cà ri: 3 - 6 gam mỗi ngày với nước, nhưng thường rang cho đến khi có mùi thơm và ăn. Để dùng ngoài, hạt được nghiền thành bột và hòa với nước để trị mụn nhọt.

Các nghiên cứu trên bệnh nhân tiểu đường loại 2 và tăng cholesterol trong máu đã sử dụng hạt cỏ Cà ri với liều lượng 5g/ngày hoặc chiết xuất hydroalcoholic với liều lượng 1g/ngày.

Bột hạt cỏ Cà ri 1,8 đến 2,7g uống, 3 lần một ngày, trong 3 ngày đầu tiên của kỳ kinh, để chữa đau bụng kinh nguyên phát (tổng liều hàng ngày, 5,4 đến 8,1g).

Bài thuốc kinh nghiệm

Chữa ho

Bột hạt Hồ lô ba, mỗi lần 3 – 5g trộn với dầu Ô liu rồi ăn, ngày 2 – 3 lần.

Để giải nhiệt

Hạt Hồ lô ba và hạt Lúa mì, hai vị bằng nhau, rang lên, tán bột rồi hãm uống như cà phê là một loại nước mát [Nadkarni, 1999: 1240].

Lưu ý

Cây độc cần chú ý.

Những người dùng hormone tuyến giáp nên sử dụng cỏ Cà ri một cách thận trọng vì các nghiên cứu trên động vật cho thấy nó có thể làm thay đổi mức T3 và T4.

Dị ứng với cỏ Cà ri đã được ghi nhận rõ ràng; hen suyễn, viêm mũi, hắt hơi, chảy nước mắt nhiều, co thắt phế quản, tê đầu, phù mạch mặt, thở khò khè và hoại tử biểu bì nhiễm độc đã được báo cáo trong một số báo cáo trường hợp. Tránh sử dụng nếu dị ứng với bất kỳ thành viên nào của gia đình họ đậu. Có thể phản ứng chéo với các loại đậu; xem xét khả năng dị ứng với đậu gà, đậu phộng, đậu nành, đậu xanh hoặc ngò.

Các đợt bùng phát tiêu chảy liên quan đến E. coli ở Pháp và Đức vào năm 2011 có liên quan đến mầm cỏ Cà ri. Mầm cỏ Cà ri cũng có liên quan đến sự bùng phát của hội chứng urê huyết tán huyết do vi khuẩn Escherichia coli O104: H4 ở châu Âu sản sinh ra độc tố Shiga.

Như đã chứng minh qua các nghiên cứu trên người và động vật, hệ thần kinh đang phát triển của trẻ có thể dễ bị nhiễm độc cỏ Cà ri. Liều thấp đến trung bình đã được chứng minh là tạo ra kích thích thần kinh trung ương nhẹ ở chuột, với liều cao hơn gây co giật, run rẩy, kích thích đau đớn và co giật toàn thân.

Nguồn tham khảo