Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Dextropropoxyphene (Dextropropoxyphen).
Loại thuốc
Thuốc giảm đau gây nghiện.
Dạng thuốc và hàm lượng
Thuốc Dextropropoxyphene được dùng điều trị các cơn đau từ nhẹ đến vừa. Thuốc chủ yếu dùng phối hợp với các thuốc giảm đau khác để có mức giảm đau mạnh hơn.
Dextropropoxyphene là thuốc giảm đau dạng opi có cấu trúc liên quan đến methadon.
Tuy kém chọn lọc hơn morphin, nhưng dextropropoxyphene gắn chủ yếu vào thụ thể muy (µ), làm giảm đau và cho tác dụng khác đến hệ TKTW tương tự như các thuốc giống morphin. Thuốc có tác dụng giảm đau nhẹ và trung bình.
Thuốc Dextropropoxyphene được dùng đường uống dưới dạng hydroclorid hoặc napsylat.
Dextropropoxyphene làm giảm đau bằng một nửa tới 2/3 so với codein khi uống.
Dextropropoxyphene hydroclorid, uống liều 90 mg đến 120 mg có tác dụng bằng liều 60 mg codein, là liều thường làm giảm đau bằng 600 mg aspirin. Không giống levopropoxyphen và codein, dextropropoxyphene không có hoặc có ít tác dụng chống ho.
Dextropropoxyphene chủ yếu dùng phối hợp với các thuốc giảm đau có tác dụng chống viêm và hạ sốt khác, như với aspirin và paracetamol. Sự phối hợp này sẽ cho tác dụng giảm đau cao hơn so với riêng từng thuốc.
Tuy vậy, một số nghiên cứu khác cho thấy không có sự khác biệt về giảm đau giữa aspirin hoặc acetaminophen đơn độc và các chế phẩm phối hợp một trong các thuốc đó với dextroproxyphen. Nghi ngờ giữa lợi ích và nguy cơ của thuốc dextroproxyphen.
Thuốc Dextropropoxyphene được hấp thu nhanh tại đường tiêu hóa; dạng muối napsylat có khuynh hướng được hấp thu chậm hơn hydroclorid, nhưng cả hai đều qua chuyển hóa bước đầu mạnh. Nồng độ đỉnh huyết tương đạt được khoảng 2 đến 2,5 giờ sau khi uống.
Thuốc phân bố nhanh và tập trung ở gan, phổi và não. Khoảng 80% dextropropoxyphene và chất chuyển hóa gắn với protein huyết tương. Dextropropoxyphene đi qua nhau thai và được phát hiện trong sữa mẹ.
Dextropropoxyphene bị khử N-methyl thành nordextropropoxyphene (norpropoxyphen) ở gan.
Thuốc bài tiết vào nước tiểu, chủ yếu dưới dạng chất chuyển hóa.
Dextropropoxyphene và nordextropropoxyphene có thời gian bán thải dài, tương ứng với 6 đến 12 giờ và 30 đến 36 giờ, nửa đời thải trừ kéo dài hơn ở người cao tuổi. Tích lũy dextropropoxyphene và chất chuyển hóa có thể xảy ra khi cho liều lặp lại và nordextropropoxyphene có thể góp phần vào nhiễm độc khi quá liều.
Thuốc ức chế hệ TKTW, kể cả rượu, có thể góp phần vào tai biến của Dextropropoxyphene.
Tác dụng gây co giật khi dùng liều cao dextropropoxyphene có thể tăng lên do thuốc kích thích hệ thần kinh trung uơng.
Thuốc Dextropropoxyphene tương tác với một số thuốc khác thông qua ức chế chuyển hóa ở gan như thuốc chống trầm cảm, benzodiazepin, chẹn beta, carbamazepin, phenobarbital, phenytoin và warfarin; liệu pháp dextropropoxyphene có thể làm tăng nồng độ trong huyết thanh của bất cứ một thuốc nào trong những thuốc trên tới mức nhiễm độc, nên cần phải xem xét giảm liều.
Nồng độ thuốc dextropropoxyphene trong huyết thanh có thể tăng bởi ritonavir dẫn tới nguy cơ ngộ độc, không được kết hợp hai thuốc này.
Không dùng thuốc dextropropoxyphene cho các trường hợp sau:
Cách dùng thuốc Dextropropoxyphene: Dextropropoxyphene hydroclorid và dextropropoxyphene napsylat được dùng theo đường uống.
100 mg dextropropoxyphene napsylat tương đương với 65 mg dextropropoxyphene hydroclorid.
Để tránh triệu chứng cai thuốc ở người bệnh dùng dextropropoxyphene trong kéo dài trong vài tuần hoặc lâu hơn, phải giảm dần liều (ví dụ giảm 25% đến 50% liều hàng ngày) trước khi ngừng thuốc.
Dextropropoxyphene hydroclorid:
Dextropropoxyphene napsylat:
Không đủ số liệu nghiên cứu cho thấy sự an toàn.
Phải giảm liều ở người có tổn thương thận hoặc gan, người cao tuổi và liều uống phải cách xa hơn.
Với liều khuyến cáo, tác dụng không mong muốn của thuốc dextropropoxyphene tương tự như đối với codein, nhưng ít gây táo bón hơn và ít tác dụng phụ đối với đường mật hơn, như: Hoa mắt chóng mặt, đau đầu, yếu cơ, an thần, ngủ gà. buồn nôn, nôn, đau bụng, táo bón.
Tác dụng an thần của propoxyphen có liên quan đến việc tăng 60% nguy cơ gãy xương hông ở bệnh nhân cao tuổi.
Sảng khoái hoặc loạn tính khí.
Xét nghiệm chức năng gan bất thường và loạn chức năng gan (vàng da có hồi phục).
Giảm 17 - hydroxycorticoid và 17 - ketosteroid ở nước tiểu.
Nếu quên dùng một liều thuốc, hãy uống càng sớm càng tốt khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và uống liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không uống gấp đôi liều đã quy định.
Quá liều và độc tính
Hội chứng serotonin; ở liều cao thể hiện một số tác dụng µ của opi (rối loạn vận động, hô hấp và ức chế thần kinh trung ương) nhưng không phải là chất chủ vận opioid thuần túy.
Triệu chứng quá liều giống như triệu chứng nhiễm độc opi (hôn mê, ức chế hô hấp, trụy tuần hoàn và phù phổi) ngoài ra, người bệnh đã phụ thuộc thuốc có thể có phản ứng tâm thần và co giật.
Có thể có bất thường dẫn truyền ở tim và loạn nhịp tim.
Liều tối thiểu gây chết của dextropropoxyphene hydroclorid có thể bằng 9 - 19 mg/kg, nhưng đã có trường hợp còn sống sót với liều cao bằng 70 mg/kg.
Nồng độ huyết tương vượt quá 10 microgam/ml có thể gây tử vong. Nhiều báo cáo cho thấy, khi quá liều dextropropoxyphene thì tử vong có thể xảy ra trong vòng 1 giờ đầu và cũng có thể xảy ra nhanh hơn (trong vòng 15 phút), nhất là khi dùng thuốc kết hợp với rượu và paracetamol.
Cách xử lý khi quá liều Dextropropoxyphene
Gây nôn hoặc rửa dạ dày và dùng than hoạt có tác dụng trong vòng 1 giờ sau khi uống dextropropoxyphene.
Thẩm phân ít tác dụng. Theo dõi điện tâm đồ là rất quan trọng. Chưa rõ là dextropropoxyphene hay sản phẩm chuyển hóa của nó có vai trò quan trọng trong việc gây tử vong khi quá liều. Tuy nhiên dextropropoxyphene và nordextropropoxyphene được cho là có tác dụng phong bế cục bộ và hoạt tính ổn định màng của dextropropoxyphene được cho là nguyên nhân chính gây ngừng tim.
Phải điều trị nhanh bằng naloxon (tiêm tĩnh mạch) và hỗ trợ hô hấp, đặc biệt cần thiết tăng cường biện pháp chống suy hô hấp nhất là khi có rượu và sử dụng thuốc chống co giật mạnh. Naloxon không đảo ngược được triệu chứng của tim.
Co giật cần được kiểm soát bằng thuốc chống co giật, nhưng cần phải nhớ tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương của dextropropoxyphene có thể tăng lên. Các thuốc kích thích hệ thần kinh (cafein hoặc các amphetamin) không được dùng vì có nguy cơ gây tăng co giật.
Khi cần, thực hiện các biện pháp hỗ trợ toàn thân như truyền dịch tĩnh mạch, dùng thuốc nâng huyết áp.
Người bệnh quá liều thuốc dextropropoxyphene dùng dạng chế phẩm kết hợp với paracetamol hoặc aspirin thì cũng cần quan tâm điều trị ngộ độc các thành phần kết hợp trên.
Qua nhiều số liệu phân tích về tử vong do quá liều dextro- propoxyphen, tháng 6/2009 Hội đồng thuốc Châu âu đã khuyến cáo rút bỏ hoàn toàn các chế phẩm có chứa dextropropoxyphene trên thị trường do hiệu quả của thuốc không lớn hơn nguy cơ mà thuốc gây ra.
Trước đó, ở Anh, Thụy Sĩ và Thụy Điển cũng đã rút bỏ dextropropoxyphene khỏi thị trường. Ở Mỹ, các sản phẩm có chứa dextropropoxyphene vẫn được lưu hành trên thị trường và đồng thời nhiều biện pháp cảnh báo đã được thực hiện để giảm nguy cơ rủi ro cho người sử dụng.