Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Nhục quế là vỏ thân cây quế, một bộ phận được sử dụng lâu đời ở cả phương Đông và phương Tây. Với hương vị rất độc đáo và đặc trưng, nhục quế được dùng để chế biến thực phẩm hay làm dược liệu.
Tên Tiếng Việt: Nhục quế.
Tên khác: Quế nhục, Quế bì, Quế đơn.
Tên khoa học: Cinnamomum cassia Nees & Eberth thuộc họ Long não (Lauraceae).
Cây quế là một cây thân gỗ, có chiều cao khoảng 15 - 20 mét. Thân cây quế thon, có màu xanh với nhiều khía và lông mịn. Khi già, thân cây có màu xám đen và nhiều nốt sần. Toàn bộ cây quế mang một mùi thơm đặc trưng.
Lá của cây quế mọc riêng lẻ, được sắp xếp cách nhau. Các lá ở gần ngọn cây mọc đối diện nhau và không có lá kèm. Phiến lá có hình dạng bầu dục, có kích thước khoảng 20 - 25cm và rộng khoảng 8 - 9cm. Đầu và gốc của lá có đầu nhọn. Lá quế có cấu trúc cứng và giòn, mặt trên lá mịn màng và có màu xanh đậm hơn mặt dưới. Mép lá của cây quế thường không có răng cưa. Lá có ba gân chính, trong đó có một gân giữa lớn và hai gân nhỏ khác, được nhìn thấy rõ ràng. Cuống lá phẳng, có màu xanh hơi xám và dài khoảng 2 đến 2.5cm.
Hoa của cây quế mọc thành cụm có hai ngã, xuất hiện ở nách lá hoặc đầu cành. Cuống cụm hoa có hình dạng trụ và dài khoảng 10 đến 12cm, mang màu xanh và được phủ nhiều lông mịn. Hoa của cây quế có màu vàng nhạt, có mùi thơm đặc trưng. Hoa nở rải rác quanh năm, nhưng thường tập trung vào mùa thu. Quả của cây quế có hình dạng cầu, có đường kính khoảng 2 - 3mm và màu xanh. Quả nằm trên một đấu nguyên.
Cây quế thường có mùa hoa vào khoảng tháng 4 đến tháng 8, và quả chín vào khoảng tháng 10 - 12 hoặc tháng 1 - 2 năm sau đó.
Cây quế phát triển chủ yếu trong các khu rừng nhiệt đới và ẩm ướt, với độ cao thường dưới 800 mét. Quế thích ánh sáng, nhưng trong giai đoạn từ 1 đến 5 năm tuổi, cây cần được che bóng để bảo vệ khỏi ánh nắng mạnh. Sự phát triển và chất lượng tinh dầu của cây quế phụ thuộc vào lượng ánh sáng mà nó nhận được.
Cây quế có phạm vi phân bố rộng trên thế giới, bao gồm các nước châu Âu, châu Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây quế được tìm thấy ở nhiều địa phương như Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Yên Bái, Hà Giang, Ninh Bình, Hà Giang, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra, hiện nay việc trồng quế được thực hiện tại Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi với mục đích sử dụng làm dược liệu và gia vị.
Trong tháng 4 đến tháng 5 và tháng 9 đến tháng 10, chọn cây quế đã trưởng thành ít nhất 5 năm để thu hoạch vỏ thân (vì cây quế càng già thì chất lượng dược liệu càng tốt). Trước khi bóc vỏ quế, cần buộc chặt quanh thân cây và những cành to, để khoảng cách giữa các buộc là 40 - 50cm. Sử dụng một chiếc dao nhọn hoặc sắt để cắt đứt một nửa phần sau của thân cây, sau đó cắt dọc theo chiều dài (lưu ý chỉ thu hái một nửa của quế nhục để đảm bảo cây có thể tái sinh). Sau đó, sử dụng một que nứa nhọn và mỏng để chèn vào khe và tách vỏ quế. Cần lưu ý không gây tổn thương đến gỗ khi tách vỏ, vì điều này sẽ làm giảm giá trị của dược liệu.
Sau khi thu hoạch, nhục quế cần được ngâm và ủ trong nước trong một ngày. Sau đó, rửa sạch và để ráo nước. Chuẩn bị lá chuối tươi, hơ mềm và lót chúng dưới đáy sọt với độ dày khoảng 5cm. Xếp vỏ quế vào sọt cho đến khi đầy, sau đó đậy lại bằng lá chuối khác cũng có độ dày khoảng 5cm. Buộc chặt sọt để nước trong quế tiếp tục chảy ra trong vòng 3 ngày (trong mùa nóng) hoặc 7 ngày (trong mùa lạnh). Trong suốt quá trình này, cần đảo vị trí của quế hàng ngày để đảm bảo quế được ủ đều.
Sau thời gian ủ, dở sọt quế ra và ngâm trong nước thêm 1 giờ. Sau đó, đặt nhục quế lên một nứa và ép bằng một phên nứa khác để làm phẳng. Đặt nhục quế ở một nơi khô mát để cho đến khi nó khô lại. Buộc vỏ quế tròn vào một thanh nứa tròn thẳng để tạo hình dáng đẹp. Trong quá trình buộc ép, mở ra hai lần mỗi ngày và lau chùi mặt bên trong để làm bóng, sau đó buộc lại. Tiếp tục làm như vậy cho đến khi quế hoàn toàn khô. Thời gian ủ quế mất khoảng 15 đến 16 ngày (trong mùa nóng) hoặc 25 đến 30 ngày (trong mùa mưa).
Quế nhục là thuật ngữ để chỉ phần vỏ thân của cây quế. Khi thu hoạch, vỏ quế được cạo sạch lớp ngoài biểu bì để thu được phần bên trong, gọi là nhục quế tâm. Trong khi đó, khi vỏ quế được cuộn lại thành hình xoắn ốc, nó được gọi là quan quế.
Trong nhục quế, thành phần chủ yếu là tinh dầu bay hơi. Thành phần quan trọng nhất của tinh dầu là Cinnamaldehyde, chiếm 75 - 90% tổng lượng, cùng với Phenyl Propyl Acetate, Tannin và Cynnamyl Acetate.
Ngoài tinh dầu, vỏ quế cũng chứa các thành phần khác như:
Tổng hợp lại, nhục quế chứa nhiều thành phần có giá trị, như tinh dầu, chất nhựa, chất nhầy, coumarin, tanin và đường, cùng với các chất khác như calci oxalat, góp phần vào tính chất và giá trị dược liệu của cây quế.
Nhục quế có vị cay ngọt, tính nóng, quy vào các kinh Can, Tâm, Thận, Tỳ. Theo Y học cổ truyền, nhục quế là dương dược, có các tác dụng giúp bổ nguyên dương, bổ mệnh môn hoả, tán hàn, chỉ thống.
Theo Đông y, nhục quế thường được chỉ định trong các trường hợp sau:
Tuy nhiên, việc sử dụng quế nhục trong điều trị các tình trạng này cần được hướng dẫn và giám sát bởi người chuyên gia y tế hoặc bác sĩ có kinh nghiệm trong y học cổ truyền hoặc dược liệu.
Công dụng kháng nấm
Một nghiên cứu đánh giá hoạt tính kháng nấm của tinh dầu nhục quế của tác giả Giordani và cộng sự được thực hiện năm 2006. Nghiên cứu cho thấy thành phần tinh dầu quế được đặc trưng bởi hàm lượng cinnamaldehyde rất cao. Kết quả đánh giá hoạt tính chống nấm Candida albicans thông qua nồng độ ức chế tối thiểu (MIC 80%) đã cho thấy tinh dầu nhục quế có tác dụng kháng nấm mạnh.
Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy hoạt tính diệt nấm, kháng nấm mạnh của tinh dầu nhục quế gây bệnh cho đồng ruộng, mùa màng.
Trong hoạt động chống oxy hoá
Nghiên cứu của tác giả Chun-Ching Lin và cộng sự năm 2003 về hoạt động chống oxy hóa của nhục quế đã được thực hiện. Nghiên cứu này tiến hành chiết xuất nước nóng và chiết xuất ethanol của nhục quế để đánh giá hiệu quả chống oxy hoá. Kết quả của nghiên cứu cho thấy chiết xuất ethanol của nhục quế cho hoạt động chống oxy hóa tuyệt vời trong mô hình gan chuột bị oxy hoá. Nghiên cứu này kết luận rằng, chiết xuất ethanol của nhục quế có thể được sử dụng như một nguồn chất chống oxy hoá tốt.
Trong hiệu quả chống đái tháo đường
Năm 2005, tác giả Eugen và cộng sự thực hiện nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị đái tháo đường của nhục quế. Nghiên cứu này cho chuột sử dụng nhục quế, chiết xuất nhục quế và chiết xuất từ quế Tích lan và đánh giá lượng đường huyết, insulin ở chuột.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, chiết xuất từ nhục quế cho hiệu quả tốt hơn chiết xuất quế Tích lan và hiệu quả hơn với lượng nhục quế tương đương. Chuột sử dụng chiết xuất nhục quế có giảm mức đường huyết, tăng lượng insulin trực tiếp do tác dụng giải phóng insulin từ tế bào INS-1. Do đó, nghiên cứu này cho thấy chiết xuất nhục quế có tác dụng trong việc điều trị đái tháo đường.
Nhục quế có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với các thành phần khác để tạo thành bài thuốc và sử dụng. Các cách dùng nhục quế phổ biến bao gồm dạng thuốc sắc, dạng bột, ngâm rượu hoặc làm thành siro.
Liều lượng được khuyến cáo như sau:
Điều trị Tỳ Thận dương hư, Thận hư, Tỳ Vị hư hàn gây đau bụng tiêu chảy
Chuẩn bị: Nhục quế 3g, Lưu hoàng 3g, Can khương 3g, Chu sa 2g, Hắc phụ tử 10g.
Thực hiện: Chế bài thuốc trên thành viên hoàn, mỗi lần uống 3g, ngày uống 2 lần. Uống thuốc với nước ấm.
Chữa đau bụng kinh
Chuẩn bị: Nhục quế 5g, Can khương 5g, Cam thảo 4g, Đường quy 12g, Thục địa 16g.
Thực hiện: Sắc thang thuốc với nước, dùng uống trong ngày, mỗi ngày uống 1 thang.
Chữa đau bụng hay đau bụng kinh do hư hàn
Chuẩn bị: Nhục quế.
Thực hiện: Tán Nhục quế thành bột mịn, mỗi lần uống 3g đến 4g với nước ấm hoặc rượu ấm.
Một số lưu ý khi sử dụng nhục quế: