Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩ Chuyên khoa 1Nguyễn Thị Khánh Vy
Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Mang thai là một quá trình tạo nên mầm sống mới với thật nhiều khó khăn và thử thách mới. Nhưng được trở thành cha, mẹ là điều vô cùng hạnh phúc. Niềm mong ước lớn nhất của người mẹ là sinh ra những đứa con khỏe mạnh, thông minh. Muốn vậy, việc chăm sóc sức khỏe trong thai kỳ là vô cùng quan trọng, thậm chí là ngay từ lúc dự định có thai.
Thai nghén (La tinh: Graviditas) hay còn gọi là mang thai là việc mang một hay nhiều con, được gọi là một bào thai hay phôi thai, bên trong tử cung của một phụ nữ. Trong một lần thai nghén, có thể có nhiều bào thai, như trong trường hợp sinh đôi hay sinh ba.
Thai kỳ được xem là kéo dài 266 ngày từ khi thụ thai hoặc 280 ngày kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng nếu chu kỳ kinh xảy ra thường xuyên mỗi 28 ngày. Ngày chuyển dạ được tính dựa trên kỳ kinh cuối cùng. Chuyển dạ được cho là bình thường khi thai phụ chuyển dạ sớm hoặc muộn hơn 2 tuần so với ngày ước tính.
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa thời kỳ sinh đẻ bình thường trong khoảng 37 tới 42 tuần. Việc tính toán ngày sinh liên quan tới thời kỳ giả định thông thường 28 ngày.
Mang thai có thể làm vú được to vồng lên, do tăng nồng độ estrogen (chủ yếu) và progesterone - một phần gây to vú trước hành kinh. Buồn nôn, đôi khi có nôn, có thể xảy ra do sự tăng tiết của estrogen và tiểu đơn vị beta của gonadotropin màng nuôi ở người (beta - hCG) bởi các tế bào hợp bào của rau thai, bắt đầu từ 10 ngày sau khi thụ tinh. Các hoàng thể trong buồng trứng, kích thích bởi beta - hCG, tiếp tục giải phóng một lượng lớn estrogen và progesterone để duy trì sự mang thai. Mệt mỏi và bụng chướng khá sớm là một số triệu chứng phụ nữ có thể gặp trong giai đoạn này.
Phụ nữ thường bắt đầu cảm thấy chuyển động của bào thai từ tuần thứ 16 đến 20. Trong giai đoạn cuối của thai kỳ, phù ở chi dưới và giãn tĩnh mạch thường gặp; nguyên nhân chính là chèn ép tĩnh mạch chủ dưới do tử cung to lên.
Khám vùng chậu các phát hiện bao gồm cổ tử cung mềm và tử cung to lên, mềm không đều. Cổ tử cung thường trở nên xanh nhạt đến tím, có thể do cung cấp máu cho tử cung tăng lên. Khoảng 12 tuần tuổi thai, tử cung phát triển lên trên vùng chậu hướng vào ổ bụng; ở tuần thứ 20, tử cung ngang rốn; và đến 36 tuần, cực trên của tử cung chạm gần tới mỏm xương ức.
Một số tác động ảnh hưởng đến sức khỏe khi mang thai cụ thể như sau:
Đau lưng, đau vùng chậu là chứng đau thường xuyên nhất trong 3 tháng cuối trước khi sinh do trọng tâm cơ thể đã chuyển đổi. Ngoài ra, cơn đau dây chằng diễn ra khi các dây chằng ở vị trí dưới tử cung căng giãn và mở rộng để nâng đỡ tử cung đang lớn dần.
Hội chứng ống cổ tay chiếm khoảng 21% đến 62% các trường hợp, có thể do phù nề.
Táo bón do sự giảm chuyển động thức ăn trong ruột để tăng progesterone (mang thi bình thường), đều này làm cho lượng nước được hấp thụ nhiều hơn. Bệnh trĩ có thể xuất hiện khi táo bón lâu ngày thường được ghi nhận ở một số trường hợp mang thai.
Thỉnh thoảng và thường các cơn co thắt không đau xảy ra vài lần mỗi ngày.
Phù là vấn đề thường gặp, do sự nén ép của inferior vena cava (IVC) và tĩnh mạch khung chậu (mông) gần tử cung làm cho tăng áp lực thủy tĩnh ở các chi dưới.
Mửa (ói), ợ chua, và buồn nôn là các vấn đề phổ biến khi mang thai.
Đi tiểu nhiều: Đây là trường hợp phổ biến do tăng thể tích trong mạch và sự đè nén bàng quang do tử cung lớn lên.
Suy tĩnh mạch: Đây là triệu chứng phổ biến gây ra bởi sự giãn các tĩnh mạch cơ trơn và tăng áp lực nội mạch.
Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe, việc mang thai cũng dễ xảy ra các biến chứng thai kỳ như sau:
Đái tháo đường và mang thai là những tương tác của bệnh đái tháo đường (không hạn chế ở đái tháo đường do thái nghén) và mang thai. Các nguy cơ cho đứa trẻ gồm sẩy thai, hạn chế phát triển, phát triển quá mức, thai quá lớn (macrosomia), polyhydramnios và khiếm khuyết khi sinh.
Trong trường hợp bệnh đồng hành systemic lupus erythematosus và thai nghén, có sự gia tăng tỷ lệ phôi chết trong tử cung và sẩy thai tự phát (sẩy thai), cũng như neonatal lupus.
Lý tưởng nhất là phụ nữ đang có kế hoạch mang thai nên gặp bác sĩ trước khi thụ thai; sau đó họ có thể tìm hiểu về nguy cơ mang thai và cách giảm nguy cơ. Như là một phần của chăm sóc tiền sinh sản, các bác sĩ lâm sàng chăm sóc ban đầu nên khuyên tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ uống một loại vitamin có chứa folic acid 400 đến 800mcg (0,4 đến 0,8mg) một lần/ngày. Folate làm giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh.
Nếu phụ nữ đã có thai hoặc trẻ sơ sinh có khuyết tật ống thần kinh, liều hàng ngày được khuyên dùng là 4000mcg (4mg). Uống folate trước và sau khi thụ thai cũng có thể làm giảm nguy cơ dị tật bẩm sinh khác.
Sự mang thai xảy ra như kết quả của giao tử cái hay noãn bào bị một giao tử đực tinh trùng xâm nhập trong một quá trình được gọi là sự "thụ thai". Sau khi được "thụ thai" nó được gọi là một hợp tử. Sự tiết tinh trùng nam thường xảy ra qua hoạt động quan hệ tình dục.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm cũng khiến việc thụ thai có thể xảy ra trong những trường hợp quan hệ tình dục không thể dẫn đến có thai (ví dụ qua việc lựa chọn hay vô sinh nam/nữ).
https://www.msdmanuals.com/
https://vi.wikipedia.org/
Buồn nôn trong những tháng đầu thai kỳ, hay còn gọi là ốm nghén, thường do sự gia tăng của hormone estrogen và progesterone trong cơ thể. Những hormone này ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, làm chậm quá trình tiêu hóa và gây buồn nôn, đặc biệt vào buổi sáng. Ốm nghén thường xảy ra trong tam cá nguyệt đầu tiên và giảm dần vào tam cá nguyệt thứ hai. Tuy nhiên, không phải phụ nữ mang thai nào cũng trải qua ốm nghén, và mức độ có thể khác nhau ở mỗi người.
Phụ nữ mang thai nên tập thể dục đều đặn để tăng cường sức khỏe, cải thiện tuần hoàn máu và giúp kiểm soát cân nặng. Các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, bơi lội, yoga dành cho bà bầu hoặc các bài tập kéo giãn cơ là lựa chọn tốt. Tuy nhiên, cần tránh các bài tập cường độ cao, nhảy mạnh, hoặc những hoạt động có nguy cơ ngã hay va đập. Trước khi bắt đầu bất kỳ chương trình tập luyện nào, tốt nhất là nên tham khảo ý kiến bác sĩ để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
Phụ nữ mang thai nên tiêm một số loại vắc xin để bảo vệ sức khỏe của mẹ và thai nhi. Vắc xin cúm và vắc xin uốn ván, bạch hầu, ho gà (Tdap) thường được khuyến cáo tiêm trong thai kỳ. Những vắc xin này giúp ngăn ngừa các bệnh có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Trước khi tiêm bất kỳ loại vắc xin nào, mẹ bầu cần tham khảo ý kiến bác sĩ.
Xem thêm thông tin: Có nên tiêm vắc xin cho phụ nữ mang thai hay không?
Siêu âm là một phương pháp quan trọng để theo dõi sự phát triển của thai nhi và sức khỏe của mẹ. Mặc dù là một phương pháp vô hại nhưng siêu âm được khuyến nghị là không được lạm dụng trong suốt thai kỳ. Vì vậy các thai phụ nên chú ý đến những mốc thời gian quan trọng để thu được kết quả tốt nhất. Thường thì các siêu âm được thực hiện ở các mốc thời gian cụ thể trong thai kỳ như 12 tuần, 20 tuần và 36 tuần. Tuy nhiên, bác sĩ có thể yêu cầu siêu âm thêm nếu có vấn đề hoặc nguy cơ cụ thể.
Xem thêm thông tin: Mẹ bầu khi nào nên đi siêu âm thai?
Các xét nghiệm quan trọng trong thai kỳ bao gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, siêu âm và sàng lọc các dị tật bẩm sinh. Các xét nghiệm khác có thể được yêu cầu tùy theo tình trạng sức khỏe của mẹ và thai nhi.
Xem thêm thông tin: Các xét nghiệm khi mang thai quan trọng mà mẹ cần ghi nhớ
Hỏi đáp (0 bình luận)