Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Imiquimod
Loại thuốc
Thuốc điều hoà đáp ứng miễn dịch
Dạng thuốc và hàm lượng
Kem 2.5 %
Kem 5%
Kem 3.75%
Điều trị tại chỗ:
Dược lực học của kem imiquimod chưa rõ. Có thể imiquimod là chất chủ vận thụ thể toll - like - receptor 7 có tác dụng kích hoạt các tế bào miễn dịch. Bôi ngoài da có liên quan đến sự gia tăng các cytokine đặc hiệu và tế bào miễn dịch.
Hấp thụ của thuốc là tối thiểu; sự hấp thụ toàn thân phụ thuộc nhiều vào diện tích bề mặt bôi thuốc hơn là liều lượng thuốc.
Bài tiết qua nước tiểu (< 3% liều dùng dưới dạng imiquimod và các chất chuyển hóa).
Tương tác với các thuốc khác hầu như không xảy ra bởi sự hấp thu qua da tối thiểu của kem imiquimod.
Do đặc tính kích thích miễn dịch, kem imiquimod nên được sử dụng thận trọng cho những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch.
Quá mẫn với hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc
Người lớn
Mụn cóc quanh vùng sinh dục (sùi mào gà) và quanh hậu môn (condylomata acuminata) ở người lớn:
Kem imiquimod nên được thoa 3 lần mỗi tuần vào trước khi đi ngủ (ví dụ: Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu; hoặc Thứ Ba, Thứ Năm và Thứ Bảy) và kem nên được lưu lại trên da từ 6 đến 10 giờ.
Điều trị bằng kem Imiquimod nên tiếp tục cho đến khi hết mụn cóc ở bộ phận sinh dục hoặc quanh hậu môn hoặc tối đa là 16 tuần cho mỗi đợt mụn cóc.
Carcinôm tế bào đáy lớp nông gặp ở người lớn:
Thoa kem imiquimod trong 6 tuần, 5 lần mỗi tuần (ví dụ: Từ thứ Hai đến thứ Sáu) trước khi đi ngủ và lưu lại kem trên da khoảng 8 giờ.
Dày sừng quang hóa (actinic keratoses) ở người lớn:
Điều trị nên được tiến hành và theo dõi bởi bác sĩ. Kem imiquimod nên được thoa 3 lần mỗi tuần vào trước khi đi ngủ (ví dụ: Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu) trong bốn tuần và lưu lại kem trên da khoảng 8 giờ.
Nên thoa kem vừa đủ che phủ vùng điều trị. Sau đó ngưng thuốc trong 4 tuần tiếp theo và đánh giá sự thoái triển của tình trạng dày sừng quang hóa (actinic keratoses). Nếu có tổn thương còn tồn tại, điều trị nên được lặp lại trong bốn tuần nữa.
Việc ngưng thuốc nên được xem xét nếu xảy ra các phản ứng quá mẫn tại chỗ dữ dội hoặc nếu quan sát thấy nhiễm trùng tại nơi điều trị. Trong trường hợp thứ hai này, cần tiến hành các biện pháp thích hợp khác. Mỗi giai đoạn điều trị không được kéo dài quá 4 tuần vì bất kì lý do gì (ví dụ: Do quên liều hoặc do một thời gian tạm ngưng).
Nếu vùng được điều trị không hết sạch tổn thương khi tái khám theo dõi trong 8 tuần sau đợt điều trị 4 tuần cuối cùng, thì có thể cân nhắc thêm 1 đợt điều trị điều trị kéo dài 4 tuần nữa.
Có thể cần sử dụng thêm một liệu pháp khác được khuyến cáo nếu các tổn thương không đáp ứng với điều trị imiquimod.
Các tổn thương dày sừng quang hóa (actinic keratoses) đã khỏi sau một hoặc hai đợt điều trị và sau đó tái phát có thể được điều trị lại bằng một hoặc hai đợt kem tiếp theo sau khi tạm dừng điều trị ít nhất 12 tuần.
Trẻ em
Mụn cóc quanh vùng sinh dục (sùi mào gà) và quanh hậu môn (condylomata acuminata):
Trẻ em 12 tuổi trở lên: Tương tự liều người lớn.
Các chỉ định khác: Không khuyến cáo sử dụng cho trẻ em. Không có sẵn dữ liệu về việc sử dụng imiquimod ở trẻ em và thanh thiếu niên trong các chỉ định đã được phê duyệt.
Không nên dùng cho trẻ em bị u mềm lây (molluscum contagiosum) do thuốc không có hiệu quả cho chỉ định này.
Nên thoa một lớp mỏng kem imiquimod vào vùng cần điều trị đã được làm sạch và thoa đều cho đến khi kem biến mất. Chỉ thoa khu vực cần điều trị và tránh thoa các bề mặt bên trong.
Nên thoa kem imiquimod trước giờ đi ngủ. Trong thời gian thoa kem từ 6 đến 10 giờ, nên tránh tắm vòi sen hoặc tắm bồn. Sau thời gian này, cần loại bỏ kem imiquimod bằng xà phòng nhẹ với nước.
Bôi quá nhiều kem hoặc tiếp xúc lâu với da có thể dẫn đến phản ứng da nghiêm trọng tại chỗ.
Ban đỏ khu trú, viêm da bì (tại chỗ bao gồm bong da, tróc vảy), đóng mài, xơ cứng da, loét da, mụn nước khu trú, vết xước da, nấm da.
Phù tại chỗ, chảy dịch tại chỗ bôi, ngứa/ bỏng rát tại chỗ.
Nhiễm trùng hô hấp trên, đau ngực, da nhợt nhạt, nhức đầu, mệt mỏi, chóng mặt, khó chịu tại chỗ, lo âu, đau, ngứa ran, phì đại da (tại chỗ), nhiễm trùng da, chàm.
Viêm môi, rụng tóc, xuất huyết da, phát ban tại chỗ, sẩn, dày sừng tiết bã, châm chích da.
Tăng glucose máu, buồn nôn, tiêu chảy, chán ăn, nôn, khó tiêu, viêm âm đạo do vi khuẩn, nhiễm trùng đường tiết niệu.
Carcinôm tế bào gai, sưng hạch, nhiễm Herpes simplex, kích ứng tại chỗ, đau khớp, đau cơ, đau lưng.
Viêm xoang, các triệu chứng giống cúm, ho, viêm họng, viêm mũi, sốt.
Các phản ứng da tại chỗ nghiêm trọng bao gồm lột da hoặc vết trợt da có thể xảy ra sau một vài lần thoa kem imiquimod và có thể cần phải tạm ngừng thuốc.
Không nên sử dụng kem imiquimod ở vùng da bị tổn thương do bất kỳ loại thuốc hoặc phẫu thuật nào trước đó.
Các dấu hiệu và triệu chứng giống cúm có thể đi kèm, hoặc thậm chí xuất hiện trước các phản ứng da tại chỗ và bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, sốt, đau cơ, đau khớp, khó chịu và ớn lạnh.
Hạch sưng to xuất hiện ở 2% bệnh nhân dày sừng quang hóa được điều trị bằng imiquimod.
Nên tránh hoặc giảm thiểu tiếp xúc với ánh nắng (bao gồm cả đèn chiếu tia cực tím) trong quá trình sử dụng imiquimod. Bệnh nhân nên được nhắc nhở sử dụng quần áo bảo vệ khỏi ánh nắng (ví dụ: Mũ) khi sử dụng kem imiquimod.
Bệnh nhân bị bỏng nắng nên được khuyến cáo không sử dụng imiquimod cho đến khi da được hồi phục hoàn toàn. Những bệnh nhân có thể tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời, ví dụ, do nghề nghiệp của họ và những bệnh nhân vốn có nhạy cảm với ánh sáng mặt trời nên thận trọng khi sử dụng thuốc.
Nên tránh sử dụng đồng thời kem imiquimod chung với bất kỳ sản phẩm khác chứa imiquimod trong cùng một vùng điều trị vì có thể làm tăng nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng da tại chỗ.
Imiquimod nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có bệnh lý tự miễn dịch trước đó vì imiquimod gây kích hoạt các tế bào miễn dịch.
Không có dữ liệu lâm sàng nào báo cáo về các trường hợp mang thai bị phơi nhiễm thuốc.
Các nghiên cứu trên động vật không chỉ ra tác hại trực tiếp hoặc gián tiếp đối với thai nghén, sự phát triển phôi thai/ bào thai, quá trình sanh nở hoặc sự phát triển sau khi sinh. Cần thận trọng khi kê đơn cho phụ nữ có thai.
Do không phát hiện được nồng độ có thể định lượng được (> 5 ng / ml) của imiquimod trong huyết thanh sau khi dùng một lần và nhiều lần tại chỗ nên không có lời khuyên cụ thể nào về việc có nên sử dụng hay không cho các bà mẹ đang cho con bú.
Hầu như không hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng lái xe và sử dụng máy móc.
Quá liều và độc tính
Khi bôi tại chỗ, tình trạng quá liều toàn thân với kem imiquimod khó xảy ra do thuốc hấp thu qua da là tối thiểu.
Sau khi vô tình nuốt phải, các triệu chứng như buồn nôn, nôn, đau đầu, đau cơ và sốt có thể xảy ra sau một liều duy nhất 200 mg imiquimod. Tác dụng nghiêm trọng nhất về mặt lâm sàng được báo cáo sau khi uống nhiều liều ≥ 200 mg là hạ huyết áp.
Cách xử lý khi quá liều
Tình trạng hạ huyết áp được giải quyết sau khi truyền dịch bằng đường uống hoặc đường tĩnh mạch.
Nếu quên dùng một liều thuốc, hãy dùng càng sớm càng tốt khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không dùng gấp đôi liều đã quy định.
Tên thuốc: Imiquimod
1) EMC:
https://www.medicines.org.uk/emc/product/823/smpc#UNDESIRABLE_EFFECTS
2) Drugs.com:
3) Uptodate:
https://www.uptodate.com/contents/imiquimod-drug-information?search=imiquimod&source=panel_search_result&selectedTitle=1~66&usage_type=panel&kp_tab=drug_general&display_rank=1#F182260
Ngày cập nhật: 31/7/2021