Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Ung thư vú thể tủy là một loạn ung thư xâm nhập, có nghĩa là nó có khả năng phát triển lan rộng đến các phần khác của cơ thể, mặc dù vậy, ung thư vú thể tủy kinh điển thường ít di căn xa hơn.
Ung thư vú thể tủy là một loại ung thư vú hiếm gặp. Ung thư vú thể tủy có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ hơn. Ung thư vú thể tủy cũng hay gặp ở những phụ nữ trẻ có di truyền đột biến gene BRCA1. Bệnh cũng có thể xảy ra ở nam giới nhưng rất hiếm gặp.
Ung thư vú thể tủy (Thỉnh thoảng được gọi là ung thư biểu mô với đặc điểm thể tủy) có thể bao gồm các phân nhóm:
Ung thư vú thể tủy là một loại ung thư xâm nhập, có nghĩa là nó có khả năng phát triển lan rộng đến các phần khác của cơ thể, mặc dù vậy, ung thư vú thể tủy kinh điển thường ít di căn xa hơn. Mặc dù mỗi trường hợp mắc bệnh có tiên lượng khác nhau, nhưng về tổng thể, tiên lượng của ung thư vú thể tủy kinh điển thường là tốt. Mặc dù vậy, không phải trường hợp ung thư vú thể tủy nào cũng như vậy.
Ung thư vú thể tủy được điều trị giống như những ung thư vú xâm nhập khác.
Sau khi phẫu thuật ung thư vú, bệnh nhân thường được điều trị thêm bằng các phương pháp khác. Các phương pháp này thường được gọi là điều trị bổ trợ và có thể bao gồm:
Mục đích của những phương pháp điều trị này là để giảm nguy cơ ung thư vú tái phát tại chỗ hoặc đối bên, hoặc di căn đến các cơ quan khác.
Một số các phương pháp điều trị này có thể sẽ được sử dụng trước phẫu thuật. Khi đó phương pháp điều trị này sẽ được gọi là điều trị tân bổ trợ hoặc điều trị bước một.
Hóa trị là phương pháp sử dụng các chất chống ung thư (hay còn gọi là thuốc độc tế bào) dùng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Hóa trị còn được gọi là điều trị toàn thân hoặc điều trị hệ thống.
Sử dụng phác đồ hóa trị nào sẽ được quyết định dựa trên đặc điểm của mỗi loại ung thư riêng biệt, ví dụ như kích thước, độ ác tính (tế bào ung thư phát triển nhanh thế nào và chúng giống hay khác tế bào tuyến vú bình thường) và hạch nách có di căn hay không? Lựa chọn phác đồ còn dựa trên tình trạng receptor oestrogen và tình trạng HER-2 của bệnh nhân.
Xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Nếu như bệnh nhân được phẫu thuật bảo tồn tuyến vú, bác sĩ thường sẽ chỉ định xạ trị diện vú để giảm thiểu nguy cơ tái phát tại chỗ. Thỉnh thoảng, bệnh nhân cũng sẽ được tiếp nhận xạ trị tại hố nách.
Xạ trị thành ngực (khác với xạ diện vú) cũng được chỉ định với một số trường hợp sau khi phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tuyến vú, nhất là khi có hạch nách di căn.
Một số ung thư vú bị kích thích bởi hormone oestrogen. Có nghĩa là hormone oestrogen bình thường trong cơ thể phụ nữ có thể là tác nhân giúp tế bào ung thư phát triển. Vì vậy có một số các phương pháp điều trị hormone giúp ngăn chặn quá trình này.
Nghiệm pháp hormone chỉ được chỉ định với những bệnh nhân có khối u có chứa bộ phận tiếp nhận thông tin thụ cảm thể (receptor) tương ứng với hormone oestrogen, được gọi là có thụ cảm thể với oestrogen dương tính hay ung thư vú có ER(+).
Khi một khối u của ung thư vú xâm lấn được xét nghiệm thụ cảm thể hormone bằng sinh thiết kim hoặc phẫu thuật, nếu khối u có ER(+) có nghĩa là oestrogen có thể khiến khối u phát triển mạnh hơn.
Nếu như khối u không có thụ cảm thể với oestrogen không được tìm thấy, loại ung thư vú này được gọi là không có thụ cảm thể với oestrogen hay còn gọi là ER(-). Ung thư vú thể tủy thường là loại ER(-) này.
Ngoài ra, đối với ung thư vú người ta còn xét nghiệm thụ cảm thể hormone progesterone.
Biện pháp hormone ít có tác dụng rõ ràng với bệnh nhân có PR(+) và ER(-). Chỉ có một số ít ung thư vú là thuộc phân loại này. Nếu bệnh nhân thuộc vào phân nhóm này, các chuyên gia sẽ trao đổi kĩ với bệnh nhân xem có nên điều trị hormone hay không.
Ung thư vú thể tủy thường có PR(-), tức là không có thụ cảm thể hormone progesterone.
Nếu như cả hai loại thụ cảm thể hormone này đều âm tính thì nghiệm pháp hormone sẽ không có tác dụng với bệnh nhân này.
Đây là một nhóm thuốc ngăn chặn khả năng phát triển và lan rộng của ung thư. Chúng xác định và can thiệp vào quá trình tế bào ung thư phát triển.
Một trong các loại thuốc đích được sử dụng khá rộng rãi là trastuzumab. Chỉ có bệnh nhân có mức độ HER-2 bộc lộ quá mức (Hay còn gọi là Her-2 dương tính) sẽ đáp ứng khi điều trị với trastuzumab. Her-2 là một loại protein giúp tế bào ung thư phát triển.
Sau khi mô vú được lấy ra khỏi cơ thể bệnh nhân bằng cách sinh thiết kim hoặc phẫu thuật, nồng độ Her-2 của khối u sẽ được định lượng. Nếu khối u bệnh nhân có Her -2 âm tính, thì trastuzumab và các nghiệm pháp đích khác cho bệnh nhân sẽ không có bất cứ lợi ích nào.
Ung thư vú thể tủy thường có Her-2 âm tính.
Bisphosphonates là một nhóm thuốc có thể giảm thiểu nguy cơ ung thư vú lây lan ở bệnh nhân đã mãn kinh. Loại thuốc này có thể được sử dụng kể cả khi bệnh nhân mãn kinh tự nhiên hay bệnh nhân mãn kinh do các điều trị của ung thư vú.
Bisphosphonates cũng giúp làm chậm quá trình tổn thương xương. Các bệnh nhân có triệu chứng loãng xương (Xương trở nên yếu đi và dễ gãy) cũng thường được kê sử dụng loại thuốc này.
Bisphosphonates có thể được kê dưới dạng uống hoặc tiêm.
Bác sĩ sẽ trao đổi với bệnh nhân xem thuốc xương Bisphosphonates có tác dụng với bệnh nhân không.
Thủy Phan
Nguồn Tham Khảo: yhoccongdong.com
Dược sĩ Đại họcNguyễn Thị Hồng Nhung
Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.