Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Ung thư vú thể tủy có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ hơn. Ung thư vú thể tủy cũng hay gặp ở những phụ nữ trẻ có di truyền đột biến gene BRCA1.
Ung thư vú thể tủy là một loại ung thư vú hiếm gặp.
Ung thư vú thể tủy có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ hơn. Ung thư vú thể tủy cũng hay gặp ở những phụ nữ trẻ có di truyền đột biến gene BRCA1.
Bệnh cũng có thể xảy ra ở nam giới nhưng rất hiếm gặp.
Ung thư vú thể tủy (Thỉnh thoảng được gọi là ung thư biểu mô với đặc điểm thể tủy) có thể bao gồm các phân nhóm:
Ung thư vú thể tủy là một loạn ung thư xâm nhập, có nghĩa là nó có khả năng phát triển lan rộng đến các phần khác của cơ thể, mặc dù vậy, ung thư vú thể tủy kinh điển thường ít di căn xa hơn. Mặc dù mỗi trường hợp mắc bệnh có tiên lượng khác nhau, nhưng về tổng thể, tiên lượng của ung thư vú thể tủy kinh điển thường là tốt. Mặc dù vậy, không phải trường hợp ung thư vú thể tủy nào cũng như vậy.
Ung thư vú thể tủy được điều trị giống như những ung thư vú xâm nhập khác.
Để đưa ra được chẩn đoán ung thư vú thể tủy, bệnh nhân thường được trải qua một số các xét nghiệm sau:
Cũng giống như tất cả các loại ung thư vú khác, những đặc điểm của mỗi cá thể khác nhau mặc dù cùng mắc ung thư vú thể tủy nhưng sẽ có cách điều trị khác nhau:
Phẫu thuật thường là phương pháp điều trị đầu tay dành cho ung thư vú thể tủy.
Có 2 loại phẫu thuật chính dành cho ung thư vú thể tủy đó là:
Loại phẫu thuật được bác sĩ tư vấn cho bệnh nhân sẽ phụ thuộc vào vị trí khối u, tương quan kích thước u và kích thước vú và số lượng u. Các chi tiết này đều được bác sĩ phẫu thuật trao đổi kĩ với bệnh nhân giúp bệnh nhân đưa ra quyết định trước khi bắt đầu vào điều trị thực sự.
Trong một vài trường hợp nếu như diện cắt của mô vú bên cạnh khối u vẫn còn tổ chức ung thư sau phẫu thuật lần thứ nhất, bệnh nhân có thể cần được phẫu thuật lần thứ hai. Phẫu thuật lần này để đảm bảo rằng tất cả khối u đã được lấy gọn. Trong một vài trường hợp, phẫu thuật thứ hai này sẽ là phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú.
Trong trường hợp cắt toàn bộ tuyến vú, bệnh nhân sẽ được bác sĩ khuyên làm phẫu thuật tái tạo vú. Phẫu thuật này có thể được thực hiện cùng lúc với phẫu thuật cắt tuyến vú (tạo hình 1 thì) hoặc một vài tháng hoặc vài năm sau (tạo hình trì hoãn).
Cũng có những bệnh nhân nữ quyết định rằng sẽ không phẫu thuật tái tạo vú hoặc không đủ điều kiện để phẫu thuật tái tạo tuyến vú. Nếu bệnh nhân đã cắt hết toàn bộ tuyến vú mà không tạo hình, bệnh nhân có thể lựa chọn sử dụng túi độn ngoài đặt trong áo lót. Cũng có một số bệnh nhân không tạo hình hoặc đeo túi độn.
Ung thư vú thể tủy thường ít khi di căn đến hạch nách hơn các loại ung thư khác. Mặc dù vậy, đội ngũ y bác sĩ vẫn có thể sẽ kiểm tra xem có bất cứ hạch nách nào có thể nghi ngờ có thể có tế bào ung thư. Cùng với tình trạng về khối u vú, tình trạng hạch nách cũng là một trong các yếu tố quyết định xem bệnh nhân có nên được điều trị bổ trợ sau phẫu thuật hay không.
Để thực hiện được điều này, phẫu thuật viên thường khuyên bệnh nhân có thể thực hiện phẫu thuật sinh thiết hạch cửa (Lấy hoặc sinh thiết một vài hạch gác) hoặc lấy toàn bộ hạch nách cho bệnh nhân.
Sinh thiết hạch gác được áp dụng rộng rãi trong những trường hợp những xét nghiệm trước phẫu thuật của bệnh nhân cho thấy rằng không có hạch nách nào có tế bào ung thư. Quá trình sinh thiết hạch gác là quá trình xác định xem hạch gác (hay hạch cửa – hạch đầu tiên tế bào ung thư lan đến) có tế bào ung thư chưa? Thường thì có hơn một hạch gác đối với mỗi trường hợp. Hạch gác được sinh thiết tức thì trong cuộc mổ – nếu hạch gác âm tính có nghĩa là các hạch khác cũng chưa bị di căn và bệnh nhân không cần phải nạo vét thêm hạch nào nữa. Thường thì sinh thiết hạch gác được diễn ra cùng lúc với phẫu thuật cắt tuyến vú, nhưng cũng có lúc sinh thiết hạch gác được diễn ra trước phẫu thuật.
Nếu như kết quả hạch gác đã bị di căn, phẫu thuật hoặc xạ trị những hạch nách còn lại là cần thiết.
Trong trường hợp các xét nghiệm trước đó đã cho kết quả nghi ngờ hạch nách của bệnh nhân đã di căn. Bệnh nhân sẽ được bác sĩ khuyên phẫu thuật nạo vét hạch nách triệt căn.
Thủy Phan
Nguồn Tham Khảo: yhoccongdong.com
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.