Có 5 loại kháng thể cần thiết gồm IgA, IgE, IgM, IgD, IgG, trong đó, kháng thể IgG đóng vai trò quan trọng với cơ thể con người. Muốn cho cơ thể khỏe mạnh, thì việc cung cấp cho cơ thể đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết. Kháng thể IgG bằng cách liên kết nhiều loại mầm bệnh như virus, vi khuẩn và nấm, IgG bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng.
Kháng thể IgG là gì?
Kháng thể Immunoglobulin G (IgG) còn có tên gọi khác là globulin G. Đây là một trong những protein có chiếm một tỷ lệ nhiều nhất trong huyết thanh người. Kháng thể này chiếm khoảng 10 - 20% protein huyết tương. Immunoglobulin là lớp chính trong những loại kháng thể IgM, IgA, IgD, IgG và IgE. Cấu trúc của các glycoprotein khác nhau và khác nhau cả chuỗi nặng cũng như chức năng hiệu ứng khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ. Immunoglobulin G được chia ra nhiều lớp và đặt tên theo thứ tự IgG1, IgG2, IgG3 và IgG4.
Vai trò của kháng thể IgG trong hệ thống miễn dịch
Đối với Immunoglobulin G kháng thể có liên quan đến đáp ứng miễn dịch thứ phát và IgM là kháng thể chính liên quan đến đáp ứng chính.
Đặc điểm của Immunoglobulin G giúp liên kết các mầm bệnh, như vi khuẩn, vi rút, nấm. Vì vậy nên có thể bảo vệ cơ thể chống lại những độc tố và nhiễm trùng. Chiếm tới 80% các kháng thể được tìm thấy trong cơ thể người, Immunoglobulin G là kháng thể phong phú nhất ở người và cả động vật có vú. Kháng thể Immunoglobulin G là kháng thể duy nhất đi qua nhau thai bảo vệ thai nhi. Kháng thể này được tìm thấy trong tất cả các chất dịch cơ thể.
Kháng thể IgG tham gia chủ yếu vào đáp ứng miễn dịch thứ phát và được tạo ra sau khi chuyển đổi lớp và trưởng thành của phản ứng kháng thể. Kháng thể IgG đáp ứng tiên phát được thực hiện bởi IgM và tăng nồng độ IgG. Immunoglobulin G có chức năng ghi nhớ kháng nguyên, do đó lần tiếp xúc với kháng nguyên kế tiếp sẽ làm hệ thống miễn dịch sẽ đáp ứng ngay bằng IgG.
Kháng thể IgG được tiết ra dưới dạng monome và nó dễ dàng tưới máu các mô vì có kích thước rất nhỏ. Và điều đặc biệt là kháng thể duy nhất có các thụ thể để đi qua nhau thai cung cấp kháng thể bảo vệ cho thai nhi trong tử cung. Bên cạnh đó IgA tiết ra trong sữa mẹ, Immunoglobulin G giúp cho trẻ sơ sinh một hệ miễn dịch. Trong thành phần sữa non chứa tỷ lệ cao Immunoglobulin G. Trong sữa non của bò chứa tỷ lệ khá cao thành phần này. Còn đối với những người có khả năng miễn dịch trước mầm bệnh thì Immunoglobulin G xuất hiện khoảng 24 - 48 giờ sau khi kích thích kháng nguyên.
Trẻ sơ sinh có những kháng thể giống với mẹ trong thời gian đầu đời và có thể tự bảo vệ mình trước mầm bệnh mà người mẹ gặp phải trong đời. Những kháng thể này sẽ giảm dần và sẽ mất hoàn toàn khi đứa trẻ được khoảng 5 tháng tuổi. Như vậy có thể nói kháng thể IgG vô cùng quan trọng đối với trẻ sơ sinh. Bởi vì trẻ sơ sinh còn non yếu nên rất nhạy cảm với bệnh nhiễm trùng đặc biệt là hệ tiêu hóa và hô hấp cũng còn yếu. Chỉ đến tháng thứ 3 sau khi sinh và phát triển dần để đạt được đến giá trị như người lớn khi trẻ được 2 tuổi và cũng tham gia vào việc điều chỉnh các phản ứng dị ứng.
Muốn cho cơ thể khỏe mạnh, cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể
Con đường gây sốc phản vệ toàn thân là do kháng nguyên liên kết chéo IgE với thụ thể tế bào mast làm kích thích và giải phóng histamin, tiểu cầu, yếu tố (PAF). Đồng thời kháng thể Immunoglobulin G có thể ngăn ngừa sốc phản vệ qua trung gian IgE. Cách ngăn ngừa này là chặn một kháng nguyên cụ thể trước khi nó liên kết tế bào mast với IgE. Kháng thể IgG có thể dùng một lượng nhỏ kháng nguyên ngăn chặn sốc phản vệ toàn thân do một lượng kháng nguyên lớn hơn gây ra.
Khi xét nghiệm immunoglobulin G vì đây là cách để hỗ trợ chẩn đoán cho một số bệnh như viêm gan tự miễn. Khi kiểm tra nồng độ kháng thể IgG do nó thường được coi là biểu hiện cho tình trạng miễn dịch của một cá nhân có mầm bệnh cụ thể.
Xét nghiệm Immunoglobulin G
Khi nào cần xét nghiệm kháng thể IgG là khi có chỉ định của bác sĩ. Mục đích của xét nghiệm là để chẩn đoán đa u tủy xương loại IgG, chẩn đoán tình trạng thiếu hụt globulin miễn dịch loại IgG bẩm sinh hoặc mắc phải. Hoặc khi xét nghiệm để chẩn đoán huyết thanh học đánh giá tình trạng miễn dịch của người bệnh đối với các bệnh nhiễm khuẩn.
Xét nghiệm IgG không được chỉ định để chẩn đoán dị ứng. Ở người trưởng thành thì nồng độ Immunoglobulin G trong huyết thanh từ khoảng 700 - 1600mg/dl. Giới hạn bình thường tùy thuộc vào từng độ tuổi khác nhau.
Trong một số trường hợp nồng độ Immunoglobulin G huyết thanh tăng như có bệnh lý đơn dòng đa u tủy xương dòng IgG, u lympho, u tương bào biểu hiện ngoài tủy xương hay bệnh leukemia mạn tế bào lympho. Còn với bệnh lý đa dòng như bệnh sarcoidosis, bệnh gan mạn tính, các bệnh lý nhiễm trùng, giang mai, bệnh xơ kết rải rác hoặc có thể mắc bệnh do ký sinh trùng, bệnh tự miễn như lupus ban đỏ, bệnh thấp tim. Kể cả do suy dinh dưỡng nặng cũng có thể làm tăng IgG. Những nguyên nhân gây giảm nồng độ Immunoglobulin G do những hội chứng mất protein, có thai, bệnh đa u tủy xương không phải IgG, thiếu hụt miễn dịch thể dịch tiên phát, bệnh tăng macroglobulin máu Waldenstrom. Hoặc có hội chứng suy giảm miễn dịch do mắc phải AIDS.
Vai trò của kháng thể IgG
Vai trò của kháng thể IgG trong một đáp ứng miễn dịch, thì vai trò của kháng thể IgG là kích hoạt hệ thống bổ thể, liên kết kháng nguyên, huy động những tế bào miễn dịch.
Liên kết với kháng nguyên
Khi globulin miễn dịch sẽ gắn một cách đặc hiệu với 1 kháng nguyên tương ứng khi đã nhận diện được và nhờ các vùng biến đổi. Khi phản ứng chống độc tố vi khuẩn, kháng thể sẽ ngăn ngừa sự bám dính, trung hòa độc tố của các độc tố này lên các thụ thể trên bề mặt của tế bào. Như vậy sẽ giúp cho những tế bào của cơ thể không bị các rối loạn do những độc tố gây ra. Bởi vì chỉ khi bám được vào các tế bào của cơ thể thì một số loại virus mới có thể gây bệnh.
Kháng thể IgG có khả năng chống lại những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài vào cơ thể
Còn vi khuẩn sẽ sử dụng các phân tử bám dính là các adhesive, đối với virus lại sử dụng các protein cố định ở vỏ ngoài để bám vào các tế bào của cơ thể. Còn những kháng thể kháng thì phân tử bám dính adhesive của vi khuẩn và các kháng thể kháng protein capside của virus ngăn chặn chúng gắn vào các tế bào đích.
Hoạt hóa bổ thể
Khi nói đến cơ chế bảo vệ cơ thể của kháng thể IgG là sự hoạt hóa dòng thác bổ thể (bổ thể là một tập hợp các protein huyết tương, nếu được hoạt hóa thì việc tiêu diệt bằng cách xâm nhập đục lỗ thủng trên vi khuẩn, thanh thải những phức hợp miễn dịch, tạo điều kiện cho thực bào và phóng thích các phân tử hóa hướng động.
Huy động các tế bào miễn dịch
Việc huy động các tế bào miễn dịch bằng cách sau khi đã gắn vào kháng nguyên ở đầu biến đổi, kháng thể IgG bằng cách liên kết với các tế bào miễn dịch ở đầu hằng định. Vì vậy đây là yếu tố quan trọng đặc biệt trong đáp ứng miễn dịch. Vì như vậy, các kháng thể IgG có khả năng gắn với một đại thực bào, một vi khuẩn đồng thời kích hoạt hiện tượng thực bào. Như vậy những tế bào lympho giết tự nhiên có thể thực hiện chức năng độc tế bào đồng thời chúng ly giải tế bào ung thư đã bị gắn kết bởi các kháng thể.
Như vậy kháng thể IgG là kháng thể có khả năng chống lại những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài vào cơ thể, giúp cho cơ thể được khỏe mạnh. Muốn cho cơ thể khỏe mạnh cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết. Hy vọng với những thông tin này có thể giúp bạn hiểu thêm về kháng thể IgG.
Tuệ Nhi
Nguồn tham khảo: Tổng hợp