Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Bệnh nhiễm não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm gây dịch, do vi khuẩn Neisseria meningitidis gây ra. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là viêm màng não mủ và/hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể gây sốc dẫn đến tử vong, nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Nguyễn Văn My - hiện công tác tại trung tâm Tiêm chủng Long Châu. Bác sĩ Nguyễn Văn My đã có trên 20 năm kinh nghiệm làm việc với vai trò là Bác sĩ điều trị, đặc biệt là các bệnh liên quan đến chuyên ngành Truyền Nhiễm, Nhiệt đới. Hiện Bác sĩ Nguyễn Văn My đồng thời cũng là Nghiên Cứu Sinh chuyên ngành Y học Lâm sàng các Bệnh Nhiệt đới, tại Đại học Mahidol, Vương quốc Thái Lan.
Não mô cầu (Neisseria meningitidis) là song cầu khuẩn gram âm, hiếu khí thuộc họ Neisseriaceae.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, có ít nhất 12 tuýp huyết thanh của Não mô cầu được đặc trưng bởi sự khác biệt kháng nguyên vỏ polysaccharide, trong đó nhóm A, B và C chiếm khoảng 90% bệnh viêm màng não cầu khuẩn. Sự bùng phát gần đây của các chủng nhóm Y và W135 cho thấy các tuýp huyết thanh này đang ngày càng trở nên quan ngại trong việc gây bệnh, dịch.
Theo Bộ y tế Việt Nam, Người bệnh và người lành mang vi khuẩn là nguồn chứa duy nhất, ước tính có khoảng 10 – 20% dân số mang vi khuẩn não mô cầu tại hầu họng mà không có triệu chứng lâm sàng (người lành mang trùng), tỷ lệ này có thể tăng đến 40 - 50% trong các vụ dịch. Đã phát hiện 13 tuýp huyết thanh, trong đó có các tuýp hay gây bệnh là: A, B, C, X, Y, Z và W135.
Trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu là 0,5 đến 5 ca/100.000 dân số, với số ca bệnh tăng lên vào mùa Đông và mùa Xuân ở khu vực nhiệt đới. Các ổ dịch địa phương xảy ra thường xuyên nhất ở Châu Phi vùng hạ Sahara giữa Senegal và Ethiopia, một khu vực được gọi là vành đai viêm màng não, nó bao gồm 26 quốc gia.
Trong các vụ dịch ở Châu Phi (thường là do nhóm huyết thanh A), số người mắc bệnh dao động từ 100 đến 800 ca/100.000 dân cư và ảnh hưởng đến 200.000 người mỗi năm. Sau khi sử dụng rộng rãi vắc-xin não mô cầu loại A trong vành đai viêm màng não ở Châu Phi, huyết thanh nhóm A đã được thay thế bằng các huyết thanh nhóm khác của não mô cầu và Phế cầu (Streptococcus pneumoniae).
Tại Mỹ, tỷ lệ mắc bệnh hàng năm dao động từ 0,12 đến 1,1/100.000. Trong 20 năm qua, tỷ lệ mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu đã giảm hàng năm. Hầu hết các trường hợp là lẻ tẻ, điển hình ở trẻ em dưới 2 tuổi. Các đợt bùng phát bệnh não mô cầu rất hiếm ở Hoa Kỳ và chỉ khoảng 1 trong 20 trường hợp (5%) có liên quan đến một đợt bùng phát (tham khảo tại: Centers for Disease Control and Prevention's -CDC - Meningococcal Outbreaks).
Sự bùng phát có khuynh hướng xảy ra ở các môi trường tập thể (ví dụ như trại tuyển mộ quân đội, ký túc xá đại học, trường học, trung tâm nuôi giữ trẻ) và thường xảy ra ở những người từ 16 đến 23 tuổi. Nhóm huyết thanh B và C gây ra 50 đến 80% bệnh xâm lấn. Ngược lại với khu vực châu Phi, nhóm huyết thanh A rất hiếm ở Mỹ.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO: Bệnh lưu hành xảy ra chủ yếu ở trẻ em và thanh thiếu niên, với tỷ lệ tấn công cao nhất ở trẻ sơ sinh từ 3-12 tháng tuổi, trong khi đó, trong dịch bệnh, trẻ lớn hơn và thanh niên có thể gặp nhiều hơn.
Theo số liệu của Bộ Y tế Việt Nam, bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường gặp nhất là trẻ dưới 5 tuổi, thanh thiếu niên từ 14 đến 20 tuổi, những người sống trong khu vực tập thể đông người (nhà trẻ, trường học, chung cư…) và các cơ địa suy giảm miễn dịch. Châu Phi cận Sahara là nơi có các vụ dịch lớn xảy ra: vụ dịch 1996 - 1997 có 250.00 ca mắc và 25.000 ca tử vong, vụ dịch năm 2009 tại 14 nước Châu Phi với 88.199 người mắc và 5.352 người tử vong. Ở Việt Nam, thỉnh thoảng vẫn có các vụ dịch lẻ tẻ ở các địa phương, riêng năm 1977 vụ dịch ở Thành phố Hồ Chí Minh có 1015 ca mắc, do não mô cầu nhóm C gây ra.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, Viêm màng não lây truyền qua khí dung hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết đường hô hấp của người bệnh hoặc người khỏe mạnh mang mầm bệnh.
Theo dữ liệu của Bộ Y tế Việt Nam: Ngoài việc bệnh lây truyền qua đường hô hấp do hít phải các giọt nhỏ dịch tiết mũi họng bị nhiễm não mô cầu, khả năng lây truyền sẽ tăng nếu có đồng nhiễm cùng các vi rút đường hô hấp.
Biểu hiện lâm sàng:
Dấu hiệu màng não - não:
Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng, nhanh chóng vào tình trạng sốc:
Mạch nhanh, HA hạ hoặc HA kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu – tâm trương < 20 mmHg), thiểu niệu, vô niệu, đông máu nội mạch rải rác, suy thượng thận, suy đa tạng và có tiên lượng tử vong nhanh trong vòng từ 1 vài giờ đến 1,2 ngày sau phát bệnh.
Kết hợp với khai thác yếu tố dịch tễ:
Có tiếp xúc với bệnh nhân hoặc sống trong tập thể (nhà trẻ, trường học, ký túc xá, doanh trại,…) có người đã được xác định bị mắc bệnh do não mô cầu.
Do đặc điểm lây truyền của vi khuẩn não mô cầu qua đường hô hấp bởi các phần tử khí dung, giọt bắn, nước bọt… nên rất dễ lây nhiễm trong môi trường đông đúc, khép kín như trường học, doanh trại quân đội, nơi tập trung đông người - như phong trào hành hương của người Hồi giáo, trại giam…
Vi khuẩn Não mô cầu dễ dàng tấn công vào các lứa tuổi nhỏ, hệ miễn dịch còn non trẻ, chưa trưởng thành. Đặc biệt, “người lành mang trùng” là nguồn gây nhiễm rất nguy hiểm cho cộng đồng nói chung và trẻ nhỏ nói riêng.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, 5 - 15% trẻ em và thanh niên mang vi khuẩn não mô cầu ở mũi và họng, vì vậy điều trị dự phòng ít có giá trị trong việc kiểm soát hầu hết các bệnh dịch và lưu hành.
Tỉ lệ mang mầm bệnh ở mũi hầu cao nhất ở thanh thiếu niên và thanh niên, những người đóng vai trò như các hồ chứa để lây truyền vi khuẩn não mô cầu N. meningitidis. Tỉ lệ người lành mang vi khuẩn tăng đáng kể trong thời gian dịch bệnh.
Tính tối cấp của bệnh thể hiện là sự tiến triển nhanh chóng của bệnh viêm màng não do não mô cầu, thường dẫn đến tử vong trong vòng 1 - 2 ngày, thậm chí là 1 vài giờ sau khi phát bệnh.
Biểu hiện lâm sàng thường gặp là viêm màng não mủ và/hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể gây sốc dẫn đến tử vong, nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Não mô cầu N. meningitidis đã được ghi nhận là có thể gây viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung. Gần đây, tỷ lệ mắc bệnh viêm niệu đạo do não mô cầu ngày càng gia tăng ở nam giới có quan hệ tình dục đồng giới và thường là sau khi quan hệ miệng sinh dục với người mang vi khuẩn não mô cầu ở miệng họng. Não mô cầu cư trú ở vòm họng N. meningitidis cũng là căn nguyên gây viêm trực tràng, chủ yếu ở nam giới có quan hệ tình dục với nam giới.
Hơn 90% ca bệnh biểu hiện là viêm màng não. Ngoài ra còn có thể biểu hiện khác như:
Một số nguyên tắc điều trị bệnh viêm màng não do não mô cầu cần biết:
Kháng sinh:
Chọn một trong các kháng sinh sau + Penicillin G: 20 – 30 triệu UI (đơn vị quốc tế)/ngày, truyền tĩnh mạch liên tục hoặc tiêm tĩnh mạch 2 - 4giờ/lần. Trẻ em 200.000-300.000UI/kg/ngày.
Nếu dị ứng với các kháng sinh nhóm Betalactamin:
Thời gian điều trị kháng sinh tối thiểu từ 7 – 14 ngày hoặc 4 – 5 ngày sau khi bệnh nhân hết sốt, tình trạng huyết động ổn định, xét nghiệm dịch não tuỷ bình thường (đối với viêm màng não mủ do não mô cầu).
Hỗ trợ điều trị các triệu chứng gồm:
Có thể xem xét sử dụng corticoids trong trường hợp sốc không đáp ứng với thuốc vận mạch. Thường dùng methylprednisone liều 1 - 2 mg/kg/ngày, hoặc hydrocortisone 4mg/kg/ngày, trong thời gian 2 ngày.
Bạn cần lưu ý một số biện pháp phòng bệnh chung như:
Trong môi trường bệnh viện, cần lưu ý một số biện pháp phòng tránh như:
Tiêm phòng vắc xin:
Hiện tại, tất cả các trung tâm tiêm chủng Long Châu trên toàn quốc đều cung cấp tốt nhất dịch vụ tiêm ngừa vắc xin ngừa bệnh do vi khuẩn não mô cầu nói riêng và tất cả các loại vắc xin khác nói chung.
Chỉ định dự phòng bằng thuốc:
Những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân đã được chẩn đoán chắc chắn nhiễm não mô cầu, bao gồm các trường hợp sau:
Những người sống cùng nhà và sinh hoạt cùng với bệnh nhân (sống trong cùng một nhà, cùng khu nhà trọ, cùng phòng làm việc…) trong vòng 7 ngày trước khi bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng.
Những người tiếp xúc với bệnh nhân trong thời gian ngắn (có nguy cơ bị nhiễm bệnh qua đường hô hấp như: nói chuyện với bệnh nhân, tiếp xúc với dịch tiết đường hô hấp của bệnh nhân…).
Thuốc điều trị dự phòng:
Các thuốc có thể dự phòng nhiễm não mô cầu bao gồm Rifampicin, Ciprofloxacin, Azithromycin.
Ciprofloxacin: Dùng liều đơn duy nhất 500mg cho người lớn và trẻ em trên 12 tuổi.
Rifampicin: Chống chỉ định trong các trường hợp sau: đang có biểu hiện vàng da, có tiền sử tăng nhạy cảm với Rifampicin.
Dùng trong 2 ngày:
Có thể dùng Azithromycin: Liều duy nhất 500 mg cho phụ nữ có thai và đang cho con bú, trẻ em 10mg/kg.
Thời gian dùng: Nên dùng càng sớm càng tốt, tốt nhất là trong vòng 24 giờ sau khi có chẩn đoán xác định ca bệnh.
Hiện tại, trên thị trường Việt nam đang cung cấp 02 loại vắc xin ngừa bệnh do vi khuẩn não mô cầu.
Vắc xin ngừa 4 chủng huyết thanh cộng hợp A,C, Y, W135. Lịch tiêm chi tiết như sau:
Lưu ý: Trong trường hợp có dịch xảy ra, với người từ 15 tuổi đến 55 tuổi có thể tiêm nhắc 1 mũi khi khoảng cách tối thiểu với mũi trước đó là 04 năm.
Vắc xin ngừa 2 chủng huyết thanh B, C:
Như vậy với tất cả các khách hàng thuộc độ tuổi dưới đây đều tiếp nhận được vắc xin:
Tuy nhiên khi khách hàng có bất cứ vấn đề nào liên quan các yếu tố dưới đây sẽ không tiêm hoặc hoãn tiêm:
Những điều bạn cần lưu ý khi tiêm ngừa viêm màng não do não mô cầu:
Do tính chất lây nhiễm và khả năng gây bệnh của vi khuẩn não mô cầu. Nếu chẳng may chúng ta phải chăm sóc người bệnh nhiễm não mô cầu khuẩn, cần thực hiện các biện pháp sau:
Biện pháp không đặc hiệu
Một số biện pháp không đặc hiệu giúp chăm sóc người bệnh viêm màng não do não mô cầu bạn cần lưu ý:
Biện pháp phòng ngừa đặc hiệu
Chủ động tiêm ngừa vắc xin phòng chống não mô cầu khuẩn để bảo vệ thông qua cơ chế miễn dịch đặc hiệu, thu được. Xin lưu ý, thời gian tối thiểu để vắc xin phát huy hiệu quả là ít nhất từ 1 đến 2 tuần sau tiêm chủng.
Bất cứ khi nào chúng ta có yếu tố dịch tễ, phơi nhiễm, có tiếp xúc với bệnh nhân hoặc sống trong tập thể (nhà trẻ, trường học, ký túc xá, doanh trại,…) có người đã được xác định bị mắc bệnh do não mô cầu và có bất kì dấu hiệu, triệu chứng nào dưới đây, cần đến gặp bác sĩ ngay:
Biểu hiện nhiễm trùng rõ: Sốt cao đột ngột, có thể có rét run, ho, đau họng, mệt mỏi, nhức đầu.
Dấu hiệu màng não - não:
Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng, nhanh chóng vào tình trạng sốc: Mạch nhanh, HA hạ hoặc HA kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu – tâm trương dưới 20 mmHg), thiểu niệu, vô niệu, đông máu nội mạch rải rác, suy thượng thận, suy đa tạng. Tiên lượng tử vong nhất nhanh (từ vài giờ đến 1, 2 ngày sau phát bệnh).
Trên là một số giải đáp các thắc mắc thường gặp của bệnh viêm màng não do não mô cầu được bác sĩ Nguyễn Văn My giải đáp, hi vọng qua bài viết trên bạn đã có thêm các thông tin hữu ích để có biện pháp chủ động phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này. Chúc bạn sức khỏe!
Bác sĩ Nguyễn Văn My