Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Đương quy (Radix Angelicae sinensis) là rễ phơi hay sấy khô của cây đương quy. Công dụng: Thuốc bổ máu, chữa bệnh thiếu máu xanh xao, gầy yếu, mệt mỏi; đau đầu, đau lưng, đau ngực, viêm khớp, chân tay tê nhức, táo bón, mụn nhọt lở ngứa, kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh.
Tên Tiếng Việt: Đương quy.
Tên khác: Vân quy, Tần quy, Xuyên quy, Nhân sâm cho phụ nữ.
Tên khoa học: Angelica sinensis (Oliv) Deils. Họ: Apiaceae (Hoa tán).
Tên đồng nghĩa: Angelica polymorpha Maxim. var. sinensis Oliv.
Đương quy Trung Quốc (Angelica sinensis)
Đương quy Trung Quốc là loài cây nhỏ, sống lâu năm. Cây có thể cao từ 40 đến 80cm, hoặc có thể cao đến 1m khi cây có hoa. Thân cây màu tím, có dạng hình trụ, có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2 đến 3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3 đến 12 cm, gốc phát triển thành bẹ to, đầu nhọn, 3 đôi lá chét. Đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ từ 1 đến 2 lần nữa, mép chia thùy và răng cưa không đều, phía dưới cuống phát triển dài gần một nửa chiều dài cuống, ôm lấy thân. Rễ cây đương quy rất phát triển.
Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép gồm 12 đến 40 hoa. Cụm hoa dài ngắn không đều, hoa nhỏ có màu lục nhạt hoặc màu xanh trắng.
Quả bế dẹt, có rìa màu tím nhạt. Toàn thân nhẵn và có mùi thơm rất đặc biệt.
Mùa hoa quả thường vào khoảng tháng 7 đến tháng 8.
Sinh thái: Đây là loài cây ưa khí hậu ẩm mát vùng núi. Đương quy được nhân giống bằng hạt. Thời gian trồng đến khi có thể thu hoạch là từ 3 năm trở lên.
Đa phần các giống đương quy đều có nguồn gốc ở vùng ôn đới, như ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Cây thường mọc ở các vùng núi cao với khí hậu ẩm mát. Tại Trung Quốc, đương quy được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây.
Ở nước ta, dược liệu này đang được trồng trong phạm vi nhỏ ở Sapa (tỉnh Lào Cai) hoặc các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, chưa phổ biến rộng rãi. Đương quy trồng ở Việt Nam cũng phải lựa chọn thời vụ, sao cho mùa gieo hạt và sinh trưởng của cây trùng với thời gian có nhiệt độ thấp nhất trong năm, tuy nhiên chất lượng cây trồng ở vùng đồng bằng có khác so với cây được trồng ở vùng núi cao.
Hằng năm vào mùa thu gieo hạt, cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất cho qua mùa động. Qua mùa xuân lại trồng, đến mùa đông lại bảo vệ. Đến mùa thu năm thứ 3 có thể thu hoạch. Đào rễ về cắt bỏ rễ con, phơi trong nhà hoặc cho vào trong thùng, sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong mát cho khô.
Chỉ thu hái khi dược liệu trồng được 3 tuổi trở lên, Thời điểm để đào rễ tốt nhất là vào mùa thu. Sau khi thu hoạch, người dân cắt bỏ phần lá và rễ con, giữ lại phần rễ, phơi trong râm hoặc cho vào thùng sấy lửa nhẹ đến khô. Củ to, thịt chắc, dẻo, màu trắng hồng, nhiều tinh dầu, có mùi thơm đặc biệt, vị ngọt sau cay là loại tốt.
Khi dùng thì bào chế như sau: Rửa qua rễ bằng rượu (nếu không có rượu thì rửa nhanh bằng ít nước, sau vẩy cho ráo nước). Ủ một đêm cho mềm, bào mỏng 1mm. Nếu muốn để được lâu, rửa bằng nước và muối; sau đó, phải sấy nhẹ qua lưu huỳnh hoặc đốt xông nóng (không đốt trực tiếp), cho đến khi dược liệu có màu đỏ tươi hay màu vàng kim tuyến, rồi sấy than. Theo kinh nghiệm nhân dân Trung Quốc, không phơi chỗ râm mát (đương quy có màu xanh) và cũng không phơi nắng (mất tinh dầu).
Đương quy được phân thành nhiều loại: Quy đầu rễ chính và một bộ phận cổ rễ, đường kính từ 1,5 đến 4 cm, đầu tù và tròn, còn mang vết tích của lá; quy thân hay quy thoái là phần dưới của rễ chính hoặc là rễ phụ lớn; quy vĩ là phần rễ phụ hay rễ nhánh nhỏ và toàn quy gồm toàn rễ cái và rễ phụ.
Trong đương quy chứa nhiều tinh dầu, coumarin, acid hữu cơ, acid amin, các nguyên tố vi lượng và các loại vitamin tốt cho sức khỏe. Có tác giả đã xác định tỷ lệ tinh dầu có trong rễ là 0,2 - 0,4% (tinh dầu có tỷ trọng 0,955 ở 15 độ C, màu vàng sẫm, trong), tỷ lệ acid tự do trong tinh dầu chiếm tới 40%, thành phần chủ yếu của tinh dầu giống tinh dầu của đương quy Nhật Bản (Dược học thông báo, 1954, trang 432 và Thực vật dược phẩm hóa học của Lâm Khải Thọ, trang 384).
Tinh dầu gồm có các thành phần chủ yếu sau: ligustilide, n-butylidenphtalide, o-valerophenon carboxylic acid, n-butyl-phtalide, bergapten, sesquiterpen, dodecanol, tetradecanol, safrol, p-cymen, carvacrol, cadinen, vitamin B12 0,25 – 0,4%, acid folinic, biotin.
Theo đông y, đương quy có vị ngọt, hơi đắng, hơi cay, tính ôn, mùi thơm. Vào 3 kinh tâm, can, tỳ, có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, điều kinh, thống kinh, dưỡng gân, tiêu sưng, nhuận tràng.
Đương quy là một vị thuốc rất phổ thông trong đông y. Nó là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời dùng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị các bệnh khác. Trong Y học cổ truyền, đương quy được dùng điều trị chứng huyết hư trường táo, kinh nguyệt không đều, huyết ứ trệ, đau kinh, bế kinh; các bệnh thai tiền sản hậu, đau tê chân tay, tổn thương do té ngã, tâm can huyết hư; trị nhọt lở loét hoặc khái suyễn.
Tác dụng trên tử cung và cơ trơn
Trên tử cung, đương quy có 2 loại tác dụng: Một loại gây kích thích và một loại gây ức chế.
Cụ thể là:
Ức chế sự co cơ tử cung, làm giãn nghỉ sự căng của tử cung và trực tiếp làm cho hành kinh không đau.
Do cơ tử cung giãn nghỉ, tăng sự lưu thông huyết nên cải thiện sự dinh dưỡng tại chỗ, giúp tử cung nhanh chóng trở lại bình thường, gián tiếp chữa chứng thống kinh (giảm đau bụng kinh).
Đương quy có tác dụng làm cho ruột trơn và có thể chữa táo bón, giảm sung huyết vùng xương chậu do đó làm giảm đau trong lúc hành kinh.
Nghiên cứu được thực hiện năm 2002 cho thấy đương quy có thể sửa chữa các vấn đề về rụng trứng (đặc biệt là giai đoạn hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt) dẫn đến cải thiện khả năng sinh sản.
Bên cạnh đó, đương quy còn có tác dụng kích thích sản sinh estrogen tự nhiên, giúp cân bằng nội tiết tố, giảm tình trạng hội chứng tiền kinh nguyệt và lạc nội mạc tử cung, cải thiện triệu chứng cho phụ nữ mãn kinh và sau mãn kinh.
Tác dụng trên hiện tượng thiếu vitamin E
Theo nghiên cứu của Nghê Chương Kỳ khi cho chuột thiếu vitamin E ăn đương quy thì 38% chuột không có những triệu chứng thiếu vitamin E nữa. Các vị thuốc dâm dương hoắc, đan sâm, tục đoạn và xuyên khung cũng có tác dụng tương tự.
Tác dụng trên trung khu thần kinh
Theo nghiên cứu tại Nhật Bản, tinh dầu của đương quy có tác dụng trấn tĩnh hoạt động của đại não làm hưng phấn trung khu tủy sống, dẫn đến tê liệt, hạ huyết áp, giảm nhịp tim và nhiệt độ cơ thể, kèm co quắp cơ thể. Nhưng nếu tiêm dưới da thỏ thì các hiện tượng trên không rõ rệt, chỉ thấy liệt hô hấp trước, rồi đến liệt tim.
Tác dụng trên huyết áp và hô hấp
Theo nghiên cứu của Schmidt, Y Bác An và Trần Khắc Khôi, tinh dầu của đương quy có tác dụng hạ huyết áp, nhưng thành phần không bay hơi của đương quy lại có tính chất làm co cơ trơn ở thành mạch máu làm tăng huyết áp.
Theo nghiên cứu của Lưu Thiệu Quang, Trương Phát Sơ, Trương Diệu Đức cho thấy tùy theo liều lượng tinh dầu đương quy tiêm vào cơ thể mà ảnh hưởng đến hô hấp và huyết áp của cơ thể khác nhau:
Liều nhỏ: Huyết áp hơi hạ thấp, hô hấp hơi bị kích thích hoặc bị ảnh hưởng rất ít.
Liều trung bình: Huyết áp hạ thấp nhiều hơn, hô hấp khó khăn.
Liều lớn: Huyết áp hạ rất mạnh, hô hấp khó khăn rõ rệt, cuối cùng hô hấp ngừng lại, gây chết.
Tác dụng trên cơ tim
Trong đương quy có thành phần có tác dụng giống với quinidin, nên có tác dụng trên tim mạch (theo nghiên cứu của Ngụy Liên Cơ).
Tác dụng kháng sinh
Theo nghiên cứu của Lưu Quốc Thanh (năm 1950), nước sắc đương quy có tác dụng kháng sinh đối với trực trùng lỵ, tụ cầu trùng, trực khuẩn thương hàn, liên cầu khuẩn tán huyết,.... Tinh dầu lại có tác dụng ức chế trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn coli, tụ cầu khuẩn vàng.
Tác dụng giảm cân
Nghiên cứu được công bố năm 2009 cho thấy việc protein AP0A4 trong đương quy có thể điều chỉnh apatit, dẫn đến giảm mỡ trong cơ thể.
Đương quy được dùng chữa thiếu máu xanh xao, đau đầu, cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, đau lưng, đau ngực bụng, viêm khớp, chân tay đau nhức lạnh, tê bại, tê liệt, đại tiện táo bón, mụn nhọt lở ngứa, tổn thương ứ huyết, kinh nguyệt không đều, bế kinh, đau bụng kinh. Liều dùng 4,5 – 9g có thể tới 10 – 20g dạng thuốc sắc hay rượu thuốc. Còn dùng trị cao huyết áp, ung thư và làm thuốc giảm đau, chống co giật, làm ra mồ hôi, kích thích ăn ngon cơm.
Dùng chữa bệnh kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng; trước khi thấy kinh 7 ngày thì uống. Ngày uống 6 - 15g dưới dạng thuốc sắc (chia làm 2 lần uống trong ngày) hoặc dưới dạng rượu thuốc mỗi lần 10ml, ngày uống 3 lần. Uống luôn 7 - 14 ngày.
Bài tứ vật
Đương quy thục địa (hay sinh địa), mỗi vị 12g, bạch thược 8g, xuyên khung 6g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày, làm thuốc chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược, kinh nguyệt không đều, đau ở rốn, đẻ xong máu hôi chảy không ngừng. Có thể thêm vào thang các dược liệu sau, gồm: Hắc can khương, hắc đậu (đậu đen), trạch lan, ngưu tất, ích mẫu, bồ hoàng trong trường hợp phụ nữ sau khi đẻ có nhiều bệnh.
Chữa các chứng uất, ngoại cảm, phụ nữ can uất, nóng rét không khỏi
Đương quy, bạch truật, bạch thược, bạch linh, sài hồ, bạc hà, chích thảo, mỗi vị 4g, đơn bì 2,8g, chi tử 2,8g. Sắc dược liệu với 1 lít nước trên lửa nhỏ trong 20 phút.
Chữa phụ nữ rong kinh, rong huyết, có thai ra máu hoặc sảy thai ra máu không dứt
Đương quy 12g, sinh địa 12g, bạch thược 16g, xuyên khung 8g, a giao 8g, cam thảo 8g, ngải diệp 8g. Sắc dược liệu với 800ml nước trên lửa nhỏ đến khi còn lại một nửa. Mỗi ngày một thang, chia làm nhiều lần uống trong ngày.
Chữa ngoại cảm trong lạnh ngoài nóng, sợ rét, không khát (Ngũ tích tán)
Đương quy, nhục quế, bạch linh, bạch chỉ, xuyên khung, bạch thược, cam thảo, mỗi vị 12g, bán hạ 8g, cát cánh 6g, thương truật 3g, trần bì 3g, can khương 2g, hậu phác 1,6g. Sắc dược liệu với 2 lít nước trên lửa nhỏ trong vòng 30 phút. Dùng mỗi ngày 1 thang.
Nhuận táo thang
Đương quy, thục địa, đại hoàng, cam thảo, đào nhân, mỗi vị 4g, sinh địa 3g, thăng ma 3g, hồng hoa 1g. Sắc dược liệu với 500ml nước với lửa nhỏ đến khi còn phân nửa thì ngưng.
Thanh vị tán
Đương quy, sinh địa, mỗi vị 1,6g, thăng ma 2g, hoàng liên 1,2g, mẫu đơn 1,2g. Trường hợp đau nhiều có thể thêm thạch cao. Sắc dược liệu với 500ml nước với lửa nhỏ đến khi chỉ còn 200ml thì ngưng. Chia làm 3 lần uống trong ngày, mỗi ngày chỉ 1 thang.
Thống tăng phương, chữa ra mồ hôi trộm, đêm mất ngủ, ăn ít, hơi thở ngắn
20g đương quy (rửa rượu), 12g thục địa (nướng), 12g liên nhục (sao), 12g bạch thược (sao mật), 6g nhân sâm (sao), 6g phục thần, 4g đơn sâm (rửa rượu), 4g mẫu đơn (sao rượu), 4g a giao (sao phồng), 10g cao quy bản, 15 hạt ngũ vị (sao mật). Các vị thuốc đã qua sơ chế đem cho tất cả vào ấm. Tiến hành sắc với lửa nhỏ. Chia làm nhiều lần uống trong ngày, mỗi ngày chỉ sắc uống 1 thang.
Bình can khí hòa can huyết thanh, chữa đau nhức hông sườn, khó trở mình và phong nhiệt úng bế, trên đầu xây xẩm, đau mắt, chảy nước mắt
Đương quy, thục địa, bạch thược, mỗi vị 8g, sinh địa 12g, đan sâm 6g, sơn thù 4g, táo nhân (sống) 4g, ngô thù (tẩm hoàng liên sao) 4g, đơn bì (tẩm rượu) 4g, quế mỏng 2,8g. Sắc uống.
Hòa can ôn thận thang, chữa đau sưng tinh hoàn và rút gân
12g đương quy, 10g bạch thược, 4g đơn bì, 4g sài hồ, 4g chi tử (sao đen), 4g độc hoạt, 4g bạch truật (sao mật), 3,2g xuyên khung, 2g ô dược (sao), 2,8g ngô thù (sao mật rượu), 2,8g quất hạch (bỏ vỏ sao), 1,2g tiểu hồi. Cho tất cả vị thuốc vào ấm đổ thêm vào 800ml nước. Tiến hành sắc trên bếp đến khi còn 300ml thì ngưng. Chia làm 3 lần uống trong ngày, mỗi ngày chỉ dùng 1 thang.
Hậu thiên lục vị phương, chữa gầy yếu, sốt về chiều, thiếu máu
Đương quy 20g, 40g thục địa, nhân sâm 12g, 8g đan sâm, viễn chí 4g, táo nhân (sao đen) 4g, vài lát gừng tươi. Sắc dược liệu với 500ml nước đến khi còn 200ml nước sắc. Dùng mỗi ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống trong ngày, uống khi còn ấm.
Lương huyết tán tà phương
Đương quy 8g, 12g sinh địa, bạch thược 6g, 4g xuyên khung, đan sâm 4g, 4g mẫu đơn, huyền sâm 4g, sài hồ 4g, bạc hà 3,2g, chích thảo 2g, 3 lát gừng tươi. Sắc dược liệu với 600ml nước đến khi còn lại một nửa.
Gia vị tứ vật thang, chữa đại tiện táo cần xổ để hạ nhiệt, dùng cho người huyết hư gầy khô
4g đương quy, sinh địa 20g, 12g bạch thược, xuyên khung 8g (nóng nhiều thì giảm đi), đại hoàng (tẩm rượu) 4g, chỉ xác 4g. Sắc dược liệu với 700ml nước với lửa nhỏ đến khi còn lại một nửa.
Bổ tỳ âm phương, thuốc bổ tỳ vị chữa bệnh suy yếu
Đương quy 40g, 12g thục địa, 8g bạch truật (tẩm sữa sao), 4g nhục thung dung (tẩm rượu nóng), ngưu tất 2g. Sắc dược liệu với 600ml nước trên lửa nhỏ trong 20 phút.
Dưỡng tuyết tán tà thang, chữa cảm hàn hoặc phụ nữ bị cảm trong khi có kinh hay sau khi đẻ
Đương quy 8g, bạch thược 6g, trần bì 12g, sài hồ 12g, cam thảo 4g, gừng 3 lát. Sắc uống.
Song bổ tán tà thang, chữa sốt rét cơn đã lâu không khỏi kèm theo bị cảm
Đương quy, bạch truật, mỗi vị 8g, bạch thược 6g, chích thảo 4g, sài hồ 8 – 12g. Sắc dược liệu với 1 lít nước trên lửa nhỏ khoảng 30 phút.
Trơ âm tán tà thang, chữa cốt đau mình, nhức đầu, mặt đỏ, lưỡi khô
Đương quy 12g, 20g thục địa, 8g chích thảo, can khương 8g, nhục quế 8 – 12g. Sắc dược liệu với 600ml nước với lửa nhỏ đến khi chỉ còn một nửa.
Phù dương tán tà thang, chữa cảm hàn, sợ rét, nôn mửa, chân tay lạnh
Đương quy (ỉa lỏng thì thay bằng hoài sơn), ma hoàng, mỗi vị 12g, nhân sâm 8g, thục địa 20g, bạch truật 20g, chích thảo 4g, sài hồ 16g, nhục quế 8g, can khương 8g, gừng sống 3 lát. Tất cả dược liệu đem sắc với 1 lít nước với lửa nhỏ trong 15 phút.
Ma quế thang, chữa bệnh sốt sợ rét, không ra mồ hôi, nhức đầu đau mình
8g đương quy, 8g chích thảo, ma hoàng 8 - 12g, quan quế 12g, 4g trần bì, 3 lát gừng tươi. Sắc dược liệu với 600ml nước đến khi còn lại 1/3.
Tán kết cứu tang thang, chữa đau rát ở bụng dưới, xung quanh rốn kéo lên hông
Đương quy, nhân sâm, cam thảo phu tử chế, mỗi vị 40g, bạch truật 20g, nhục quế 2g. Sắc dược liệu với 1 lít nước với lửa nhỏ trong 15 phút. Dùng mỗi ngày 1 thang, chia làm nhiều lần uống trong ngày.
Vi dưỡng tâm can phương, chữa cảm mạo phát sốt ở trẻ em
4g đương quy, 4g sa sâm, sinh địa 8g, bạch thược 3,2g, xuyên khung 1,6g, tiêu khương 1,2g, cỏ bắc 10 sợi. Sắc dược liệu với 800ml nước trên lửa nhỏ đến khi còn khoảng 300ml.
Hòa huyết khai uất phương chữa phụ nữ đau sóc, tay chân lạnh
Đương quy, xuyên khung, mỗi vị 12g, hương phụ 6g, thanh bì 4g, long đởm thảo 4g, chỉ xác 4g, chích thảo 4g, tân lang 2g, tiêu khương 2g, phụ tử chế 1,2g, mài thêm trầm hương vào thuốc mà uống.
Nhận cơ cao, chữa bỏng và lở loét chảy mủ, sẽ bớt đau và sinh da
Đương quy, hoàng kỳ, mỗi vị 80g, hoàng đơn 40g, sáp ong 60g, dầu vùng 16g. Dán ngoài.
Bài thuốc bổ máu
Đương quy 8g, quế chi, sinh khương, đại táo, mỗi vị 6g, bạch thược 10g, đường phèn 50g, nước 600ml. Sắc lấy 200ml, thêm đường, chia làm 3 lần uống trong ngày.
Dưỡng nào hoàn, chữa mất ngủ, nhức đầu, ngủ hay mê
Đương quy 100g, viễn chí 40g, xương bồ 40g, táo nhân 60g, ngũ vị 60g, khởi tử 80g, đởm tinh 40g, thiên trúc hoàng 40g, long cốt 40g, ích trí nhân 60g, chu sa 40g, hồ đào nhục 80g, bá tử nhân 60g, chu sa 40g, hồ đào nhục 80g. Tất cả tán thành bột, thêm mật ong vào, làm viên 4g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên. Uống trong 15 ngày liền.
Chữa chảy máu cam không ngừng
Đương quy sao khô tán nhỏ, mỗi ngày dùng 2 – 3 lần, mỗi lần 4g. Dùng nước cháu chiêu thuốc.
Chữa viêm quanh khớp vai, đau nhức vai và cánh tay
Đương quy 12g, ngưu tất 10g, nghệ 8g. Sắc dược liệu với 500ml nước đến khi còn 1 nửa. Dùng mỗi ngày 1 thang, chia làm 2 - 3 lần uống trong ngày. Kết hợp với bài tập giơ tay cao lên dần để bệnh nhanh chóng hồi phục.
Điều trị sa sinh dục
Đương quy 10g, đảng sâm 12g, bạch truật 10g, sài hồ 8g, thăng ma 12g, trần bì 6g, tục đoạn 10g, quất hạch 10g, cam thảo 4g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Chữa tăng huyết áp và các triệu chứng tim mạch
Đương quy 31g, ngưu tất 25g, sinh địa 31g, mạch môn 31g, tri mẫu 10g, long đởm 31g, lô hội 15,5g, vân mộc hương 6g, xạ hương 1,5g, chi tử 31g, hoàng liên 31g, hoàng cầm 31g, hoàng bồ 31g, đại hoàng 15,5g, hà thủ ô đỏ 15,5g, thạch cao 31g. Tán bột, cho thêm mật ong làm thành viên 0,5g. Uống mỗi lần 4 viên, ngày 3 lần. Nên bổ sung gừng tươi vào khẩu phần ăn hàng ngày.
Chữa tăng huyết áp ở bệnh nhân có bệnh thận
Đương quy 10g, vỏ trai 15,5g, sinh địa 10g, đảng sâm 10g, trắc bách (hạt) 15,5g, táo chua (quả) 15,5g, phục linh 15,5g, vân mộc hương 6g, hoàng liên 3g. Cho 800ml, sắc còn 300ml. Chia 3 lần uống trong 3 ngày.
Chữa tăng huyết áp ở bệnh nhân có giãn tim, chóng mặt, khó thở, ra mồ hôi, có triệu chứng ứ trệ máu
Đương quy 10g, sinh địa 10g, phục linh 6g, thạch xương bồ 6g, ngũ vị tử 10g, mạch môn 15g, táo chua (quả) 10g, chi tử 3g, huyền sâm 10g, cúc hoa 6g, hà thủ ô đỏ 15g, cam thảo 6g, đảng sâm 6g. Sắc với 800ml nước, còn 300ml. Uống một lần trong ngày.
Chữa xuất huyết não do xơ cứng mạch máu kèm theo liệt nửa người
Đương quy 6g, hoàng kỳ 15,5g, long đởm thảo 10g, sinh địa 15,5g, bạch thược 6g, hạt mơ 10g, hồng hoa 3g, cát cánh 3g, cam thảo 3g, phòng phong 3g. Sắc, chia 3 lần uống trong ngày. Cần duy trì liên tục và đều đặn trong 2 – 3 tháng.
Chữa suy nhược tâm thần
Đương quy, nhân sâm, bạch truật, phục linh, cam thảo, viễn chí, xà sang, phụ tử chế, mỗi vị 6g, toan táo nhân 9g, khởi tử 9g, bạch chỉ 9g. Sắc, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa suy nhược tâm thần với các triệu chứng chóng mặt, mệt lả, mất trí nhớ, mất ngủ
Đương quy 20g, xuyên khung 10g, viễn chí 15g, phục linh 20g, sinh địa 20g, tục tùy tử (quả) 15g, mạch môn 15g, khởi tử 20g, cúc hoa 20g, hoàng bá 10g, nhân sâm 10g, toan táo nhân 25g, bạch truật 15g. Sắc, chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa suy nhược tâm thần với các biểu hiện trầm cảm và mệt mỏi nhiều
Đương quy 25g, nhân sâm 5g, bạch thược 15g, bạch truật 15g, phục linh 15g hoàng kỳ 25g, vân móc hương 5g, cam thảo 7,5g, tục tùy tử (quả) 50g, toan táo nhân 20g, viễn chí 7,5g, ngũ vị tử 5g. Sắc, chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa suy nhược thần kinh với các triệu chứng mất ngủ, chóng mặt, nhức đầu:
Đương quy, mạch môn, khởi tử, sinh địa, mỗi vị 50g, phục linh 25g, viễn chí 20g, toan táo nhân 100g, hạt sen 25g, nhân sâm 20g, huyền sâm 25g, ngũ vị tử 25g, địa liền 20g. Tán bột, trộn với mật ong, làm thành viên hoàn, mỗi viên 15g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 2 lần, với nước nóng.
Chữa các bệnh trùng roi
Đương quy 19g, bạch thược 6g, xích thược 6g, đỗ trọng 10g, sinh địa 10g, trần bì 3g, hoạt thạch 12g, bối mẫu 12g, xuyên khung 6g. Ngâm trong 500ml rượu 400 trong 7 ngày ở nơi thoáng mát. Mỗi lần uống 20ml, ngày 2 lần.
Chữa bệnh cứng bì
Đương quy 3g, dây đau xương 3g, hoàng kỳ 3g, tần cửu 3g, đào nhân 3g, hồng hoa 3g, bạch truật 3g. Sắc với 400ml nước trong 30 phút, chia uống làm 3 lần trong ngày.
Chữa bệnh bạch biến
Đương quy 10g, sinh địa 16g, tri mẫu 10g, xuyên khung 10g, bạch thược 10g, hậu phác 10g, trần bì 6g. Khi có chứng bạc tóc, bạc râu, gia thêm hà thủ ô đỏ 9g, đảng sâm 12g. Tán bột, làm thành viên 0,6g, mỗi lần uống 15 viên, ngày 3 lần.
Chữa lao phổi
Đương quy, sinh địa, nhân sâm, phục linh, bạ mơ, bạch thược, dầu hạt mơ, quả táo chua, cam thảo, mỗi vị đều 1g, ngũ vị tử 5g. Sắc và chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa thiếu máu
Đương quy 9g, bạch thược 6g, sinh địa 9g, xuyên khung 5g. Sắc với 400ml nước trong 15 phút, mỗi lần uống 150ml, ngày 2 lần.
Chữa thiếu máu với các triệu chứng giảm trí nhớ, mất ngủ, bệnh về niêm mạc:
Đương quy 50g, nhân sâm 25g, phục linh 25g, huyền sâm 25g, cát cánh 25g, viễn chí 25 g, sinh địa 200g, ngũ vị tử 50g, mạch môn 50g, thiên môn 50g, đan sâm 50g, toan táo nhân 50g, trắc bách (hạt) 50g. Tán nhỏ, trộn với mật ong, làm thành viên hoàn 15g, mỗi lần uống 1 viên, ngày 2 lần.
Chữa ung thư các cơ quan đường tiêu hóa, ung thư vú, ung thư tử cung
Đương quy 10g, bạch thược 10g, vân mộc hương 3,3g, phụ tử chế 16,5g, đinh hương 3,3g, gừng 10g.
Lương phụ tử chế nêu trên được đun sôi riêng với nước trong 2 giờ (bỏ phụ tử vào nước đã sôi và đun sôi tiếp). Thêm các dược liệu còn lại vào đun sôi thêm 30 phút. Sau đó, lọc qua rây. Không được dùng dụng cụ bằng kim khí và đồ sành sứ.
Uống mỗi lần 100ml nước sắc, mỗi ngày 3 lần. Trước và sau khi uống thuốc 3 giờ, không được ăn trứng gà, thức ăn chua và lạnh, không uống những thức uống lạnh.
Đương quy là một vị thuốc dùng rất phổ biến trong Đông y, là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời cũng được chỉ định trong nhiều đơn thuốc bổ và nhiều bệnh khác. Tuy nhiên, không sử dụng đương quy trong trường hợp sau:
Đương quy vị cay tính ôn do đó người thể trạng bị nóng ngứa không nên dùng. Phụ nữ đang có thai hoặc chuẩn bị có kế hoạch sinh con cũng không nên dùng.
Người tiêu chảy nên kiêng vì Đương quy có tác dụng nhuận táo.
Từ điển cây thuốc Việt nam – Võ Văn Chi.
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Tập 1).
https://tracuuduoclieu.vn/duong-quy.html