Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Virus EBV là một trong những loại virus phổ biến thuộc họ herpes. Tỷ lệ người trưởng thành nhiễm EBV trên thế giới là hơn 90%, khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ cần phải làm xét nghiệm EBV trong cơ thể.
EBV là tên của Epstein-Barr hoặc Herpesvirus 4 ở người . Đây là một loại virus gamma và chúng phổ biến đến mức 90% người lớn bị nhiễm virus và đã phát triển các kháng thể chống lại virus. Vậy xét nghiệm EBV có ý nghĩa gì?
EBV (tên đầy đủ là virus Epstein-Barr) lây truyền từ người này sang người khác thông qua chất dịch cơ thể hoặc nước bọt tiết ra trong hoạt động tình dục. Nhìn chung, nhiễm EBV không biểu hiện các triệu chứng khác với các triệu chứng do virus thông thường gây ra.
Theo thống kê, khoảng 30 - 50% người lớn bị nhiễm EBV phát triển các triệu chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân, chẳng hạn như khó chịu, mệt mỏi, nhức đầu, sốt và sưng hạch bạch huyết, lách to,… EBV cũng liên quan đến ung thư chẳng hạn như ung thư dạ dày, ung thư vòm họng, ung thư hạch Burkitt hoặc ung thư hạch Hodgkin, thường gặp ở những người có hệ miễn dịch suy yếu.
EBV được chia thành hai loại: EBV loại 1 và EBV loại 2. Đặc điểm giữa hai EBV chủ yếu là gen EBNA-3, một yếu tố gây ra sự khác biệt về khả năng hoạt hóa và biến đổi của hai loại virus.
Các xét nghiệm miễn dịch sau đây được sử dụng để kiểm tra xem virus EBV có trong máu hay không:
Trong giai đoạn cấp tính của nhiễm EBV, VCA IgM xuất hiện sớm và có thể biến mất trong khoảng 4 - 6 tuần hoặc kéo dài trong vài tháng.
Bệnh cũng có thể được phát hiện trong giai đoạn đầu của nhiễm EBV cấp tính. Xét nghiệm kháng thể để tìm nhiễm EBV, điều này xảy ra cùng thời điểm với VCA IgM và có thể đạt cao nhất 2 - 4 tuần sau khi nhiễm, sau đó giảm và tồn tại trong suốt cuộc sống con người.
Mặc dù không phải lúc nào cũng xuất hiện kháng thể IgG kháng EA-D nhưng chúng sẽ tăng lên trong 3 - 4 tuần đầu và có thể biến mất sau 3 - 4 tháng. Trong nhiều trường hợp, việc phát hiện các kháng thể IgG chống lại EA-D cũng là một dấu hiệu cho thấy một người bị nhiễm virus EBV đang hoạt động.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngay cả người khỏe mạnh cũng có kháng thể kháng EA-D trong cơ thể hàng năm trời, trường hợp này là 20% người khỏe mạnh.
Bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang, EBNA-1 IgG không xuất hiện trong 3 - 4 tuần đầu của nhiễm EBV cấp tính, nhưng phát triển dần dần và kéo dài 2 - 4 tháng sau khi bệnh khởi phát. của các triệu chứng, vì vậy nó được coi là một trong những dấu hiệu truyền nhiễm EBV.
Ở những bệnh nhân bị nhiễm EBV mãn tính hoặc bị suy giảm miễn dịch, EBNA-1 IgG thường âm tính hoặc ở mức thấp.
Xét nghiệm EBV được chỉ định ở:
Xét nghiệm EBV thường là xét nghiệm tìm kháng thể chống lại các kháng nguyên của virus EBV, do đó, kết quả là xác nhận sự hiện diện của các kháng thể này. Kết quả dương tính có nghĩa là sự hiện diện của kháng thể trong cơ thể, trong khi kết quả âm tính có nghĩa là không có kháng thể trong cơ thể hoặc mức độ kháng thể đủ thấp để được phát hiện bằng xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm cũng có thể cho biết hiệu giá của kháng thể trong cơ thể bệnh nhân.
Xét nghiệm này cũng có thể phát hiện một kháng thể gọi là immunoglobulin trong máu. Kháng thể này cho bạn biết tình trạng nhiễm trùng mới hay cũ. Các kháng thể IgM cũng chỉ được tìm thấy trong giai đoạn cấp tính của nhiễm EBV và cũng trong giai đoạn bệnh tăng bạch cầu đơn nhân hoạt động mạnh. Kháng thể IgG thường được tìm thấy 3 - 4 tuần sau khi nhiễm virus.
Kết quả kiểm tra có thể có sau khoảng 3 ngày.
Thông thường tiêu đề thấp hơn và từ 1 đến 10 (1:10) là bình thường. Nếu hiệu giá tiêu chuẩn nhỏ hơn 1:10, điều đó có nghĩa là bạn chưa bao giờ tiếp xúc với virus EBV và kháng thể EBV VCA IgM âm tính. Nếu có IgG thì người đó đã từng tiếp xúc với EBV trong quá khứ.
Hiệu giá bất thường là nếu nó lớn hơn 1 - 10 hoặc 1:10 nhưng nhỏ hơn 1: 320, người đó đã bị nhiễm EBV trước đó. Giá trị 1 : 320 hoặc cao hơn có nghĩa là người đó bị nhiễm trùng EBV đang hoạt động hoặc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân, trong trường hợp này, kháng thể EBV VCA IgM thường dương tính.
Kết quả xét nghiệm EBV để xác định sự hiện diện của DNA virus. PCR dương tính có nghĩa là sự hiện diện của virus EBV trong cơ thể và âm tính có nghĩa là không có virus trong cơ thể. Các xét nghiệm kháng thể đối với kháng nguyên EBV thường ít có giá trị hơn xét nghiệm EBV và PCR. Muốn xác định virus gây bệnh, người ta phải dựa vào triệu chứng lâm sàng có được khi bác sĩ khám bệnh.
Ngọc Hà
Nguồn tham khảo: Tổng hợp
Dược sĩ Đại họcNguyễn Vũ Kiều Ngân
Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.