Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Rất nhiều các phương pháp điều trị ung thư có ảnh hưởng tạm thời hoặc vĩnh viễn lên khả năng sinh sản ở nữ giới. Dưới đây là những gợi ý cho bạn đọc về việc bảo tồn khả năng sinh sản đối với phụ nữ mắc ung thư.
Khả năng sinh sản có nghĩa là khả năng có thể mang thai. Vô sinh là tình trạng không có khả năng mang thai hoặc duy trì thai kỳ. Trước khi bắt đầu điều trị ung thư, bệnh nhân nên nói chuyện với nhóm chăm sóc sức khỏe. Nên hỏi xem phương pháp điều trị có thể ảnh hưởng như thế nào đến khả năng sinh sản như thế nào. Và các lựa chọn nào để có thể bảo tồn khả năng sinh sản.
Ảnh hưởng của bệnh ung thư hoặc điều trị ung thư đến vấn đề sinh sản xảy ra theo 2 cách chính:
Buồng trứng lưu trữ trứng của người phụ nữ. Tổn thương các cơ quan này có thể làm giảm dự trữ buồng trứng. Dự trữ buồng trứng là tổng số trứng chưa trưởng thành ở cả hai buồng trứng. Ngay khi được sinh ra, người phụ nữ đã có tất cả số trứng để thực hiện chức năng sinh sản. Một khi những quả trứng này bị mất, chúng không thể được thay thế. Mất những quả trứng khỏe mạnh gây vô sinh và mãn kinh sớm.
Những phương pháp điều trị ung thư dưới đây đã được biết đến có thể gây tác dụng phụ lên khả năng sinh sản:
Hóa trị liệu, đặc biệt là các loại thuốc thuộc nhóm alkylating, có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản:
Xạ trị ở những cơ quan sau có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản:
Phẫu thuật cắt bỏ các cơ quan sinh dục có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản:
Bạn có thể đến khám tại bác sĩ nội tiết sinh sản. Đây là bác sĩ chuyên khoa về các bệnh liên quan đến sinh sản, trong số đó, sẽ có một số bác sĩ chuyên về các vấn đề sinh sản trong ung thư.
Phụ nữ có kinh nguyệt sau khi điều trị ung thư vẫn có khả năng mang thai. Tuy nhiên, kinh nguyệt không phải là bằng chứng cho thấy bạn có khả năng sinh sản. Cụ thể như sau:
Bạn có thể được giới thiệu làm các xét nghiệm dự trữ buồng trứng. Xét nghiệm này bao gồm các xét nghiệm nội tiết rất nhạy như hormone kháng Müllerian.
Trẻ em và phụ nữ trẻ thường có số lượng trứng dự trữ lớn hơn so với các phụ nữ nhiều tuổi hơn. Họ cũng ít khi bị mãn kinh đột ngột hoặc vô sinh ngay sau khi tiến hành hóa trị. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các phụ nữ trẻ sẽ không bị vô sinh. Với xạ trị vùng chậu, vùng bụng dưới và hóa trị liều cao, ngay cả trẻ em cũng có thể bị mãn kinh ngay lập tức.
Để có thể mang thai mà không cần hỗ trợ sinh sản, bạn cần:
Tuy nhiên, một số trường hợp nên chờ đợi một thời gian trước khi mang thai và khoảng thời gian này phụ thuộc vào:
Một số phụ nữ điều trị theo liệu pháp nội tiết tố cần trì hoãn mang thai trong một thời gian. Việc trì hoãn mang thai cũng có thể làm giảm khả năng sinh sản, bởi số trứng dự trữ giảm dần theo thời gian. Vì vậy, nên cân nhắc các biện pháp bảo tồn sinh sản.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ASCO) khuyến cáo tất cả các phụ nữ bị ung thư nên tham vấn với bác sĩ về nguy cơ vô sinh và các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản càng sớm càng tốt trước khi được tiến hành điều trị. Nếu lựa chọn các phương pháp bảo tồn sinh sản, bạn nên nói chuyện với các chuyên gia về lĩnh vực này ngay cả khi không chắc chắn muốn có con trong tương lai. Phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nữ được lựa chọn dựa trên:
ASCO khuyến cáo các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nữ bao gồm những phương pháp sau:
Đây là phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nữ thành công nhất, còn được gọi là thụ tinh nhân tạo. Người phụ nữ uống thuốc kích trứng trong hai tuần, sau đó trứng sẽ được lấy ra, thụ tinh trong phòng thí nghiệm rồi đông lạnh để dành cho sau này.
Phương pháp này tương tự với đông lạnh phôi, chỉ khác là trứng chưa được thụ tinh. Phương pháp này áp dụng cho những phụ nữ chưa chồng và tỉ lệ thành công thấp hơn một chút so với đông lạnh phôi.
Một số phẫu thuật cổ tử cung hoặc buồng trứng có thể bảo tồn khả năng sinh sản.
Phẫu thuật ung thư cổ tử cung
Đôi khi phẫu thuật viên chỉ cắt bỏ cổ tử cung mà vẫn giữ nguyên tử cung. Điều này cho phép người phụ nữ có thể sinh con qua phẫu thuật lấy thai (C-section). Đây là một lựa chọn cho những phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm.
Phẫu thuật ung thư buồng trứng
Đôi khi chỉ cần cắt bỏ một bên buồng trứng, áp dụng cho những phụ nữ mắc ung thư giai đoạn sớm khu trú ở một bên buồng trứng. Điều này giúp bảo tồn bên buồng trứng khỏe mạnh để sinh sản và tránh bị mãn kinh sớm.
Một số phụ nữ chỉ cần xạ trị một bên buồng trứng và điều này giúp bảo tồn khả năng sinh sản. Một phương pháp khác là cố định buồng trứng, phẫu thuật viên sẽ di chuyển một hoặc cả hai buồng trứng sao cho tia xạ không thể chiếu vào, sau đó đặt chúng lại vị trí cũ sau khi xạ trị xong. Tuy nhiên, cách này không phải lúc nào cũng thành công. Xạ trị không phải lúc nào cũng chính xác và vẫn có thể chiếu vào buồng trứng cũng như mạch cấp máu cho buồng trứng.
Đây là một phương pháp thăm dò để bảo tồn sinh sản, bằng cách dùng hormone ức chế chức năng buồng trứng. Điều này có thể bảo vệ trứng, tránh các ảnh hưởng bởi điều trị. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu chưa chứng minh được hiệu quả của phương pháp này và chúng thường không được khuyến khích khi mà các lựa chọn bảo tồn sinh sản tiêu chuẩn khác có sẵn.
Phương pháp này cần phẫu thuật lấy mô buồng trứng ra và làm đông lạnh. Sau đó cấy ghép trở lại khi hoàn thành quá trình điều trị. Phương pháp này có lẽ là lựa chọn duy nhất đối với các bé gái khi không thể tiến hành đông lạnh phôi hoặc đông lạnh noãn.
Không phải phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản nào cũng phù hợp với tất cả mọi người. Bạn cần tham vấn với bác sĩ khi quyết định bảo tồn sinh sản. Hãy cân nhắc những điều sau:
Bệnh nhân có thể tham khảo một số câu hỏi dưới đây để hỏi bác sĩ:
Bảo tồn khả năng sinh sản đối với phụ nữ mắc bệnh ung thư mang lại cho họ cơ hội thực hiện thiên chức làm mẹ của mình, giúp họ tự tin hơn và hạnh phúc hơn trong cuộc sống!
Hoàng Yến
Nguồn tham khảo: yhoccongdong.com
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.