Dược sĩ Đại học có nhiều năm kinh nghiệm trong việc tư vấn Dược phẩm và hỗ trợ giải đáp thắc mắc về Bệnh học. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Quỳnh Loan
05/11/2025
Mặc định
Lớn hơn
Con đỉa là loài sinh vật ký sinh quen thuộc trong tự nhiên và được sử dụng từ lâu trong dân gian như một vị thuốc quý. Ngày nay, các hoạt chất trong con đỉa được ứng dụng rộng rãi trong y học hiện đại, mang lại nhiều lợi ích trong điều trị bệnh lý.
Trong tự nhiên, có nhiều sinh vật tuy mang vẻ ngoài đáng sợ nhưng lại chứa đựng giá trị y học đáng kinh ngạc. Con đỉa là một trong số đó. Dù thường bị coi là loài ký sinh gây hại song từ xa xưa, con người đã biết tận dụng đặc tính sinh học của chúng để chữa bệnh, hỗ trợ lưu thông máu và giảm viêm. Việc tìm hiểu rõ về đặc điểm, công dụng và cách sử dụng của đỉa giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về loài sinh vật này.
Đỉa là loài động vật không xương sống thuộc ngành Giun đốt, thường sinh sống trong môi trường nước ngọt như ao, hồ hoặc đầm lầy. Loài này có thân hình dẹt, dài trung bình từ 8 - 12 cm và được chia thành nhiều đốt nhỏ.
Khi quan sát bằng mắt thường, ta có thể nhận thấy đỉa có mặt lưng hơi gồ lên, màu xanh lục nhạt kèm sáu dải dọc màu nâu đỏ, còn mặt bụng có hai vạch đen xen kẽ các chấm sẫm màu. Đỉa có hai giác hút nằm ở hai đầu: Giác miệng ở phía trước dùng để hút máu, còn giác đuôi giúp chúng bám chắc vào bề mặt vật chủ.

Hàm răng của đỉa là một khối cơ khỏe chứa nhiều răng nhỏ, đủ sắc để rạch da khi hút máu. Trong quá trình này, nước bọt của đỉa tiết ra chất gây tê giúp vật chủ không cảm thấy đau. Đặc biệt, nước bọt còn chứa chất chống đông máu khiến máu chảy liên tục cho đến khi đỉa tự tách ra.
Tại Việt Nam, đỉa phân bố nhiều ở các vùng nông thôn, nơi có nguồn nước sạch và tĩnh. Ngoài việc hút máu người và động vật, chúng còn hấp thu dịch thực vật thủy sinh. Tuy nhiên, do môi trường nước ô nhiễm ngày càng gia tăng, số lượng đỉa tự nhiên đang giảm mạnh, buộc con người phải nuôi đỉa công nghiệp phục vụ mục đích y học và xuất khẩu.
Hai loài đỉa phổ biến thường gặp gồm:
Việc dùng đỉa làm thuốc đã được ghi nhận từ hàng ngàn năm trước. Trong dân gian, đỉa khô thường được tán bột hoặc đốt thành than, phối hợp với thảo dược khác để hỗ trợ chữa các chứng tụ máu, bầm tím hoặc vết thương ngoài da.
Theo y học cổ truyền, đỉa có vị mặn, đắng, tính bình và có độc. Dược liệu này có công dụng tiêu tích, thông kinh, lợi tiểu và giải độc. Tuy độc tính cao nhưng nếu được bào chế đúng cách, đỉa có thể trở thành vị thuốc quý hỗ trợ lưu thông khí huyết và tiêu viêm.
Từ thế kỷ XV trước Công nguyên, con người đã biết dùng đỉa sống để chích máu trị sưng tấy, áp xe hoặc viêm nhiễm cục bộ. Đến thế kỷ XIX, phương pháp này phổ biến tại châu Âu, đặc biệt ở Pháp và Anh. Tuy nhiên, việc dùng đỉa sống trực tiếp đã bị loại bỏ do nguy cơ lây truyền bệnh.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, nước bọt đỉa được chiết tách để sản xuất hirudin, một hoạt chất có khả năng ức chế đông máu mạnh gấp nhiều lần heparin. Hirudin được sử dụng trong điều trị các bệnh lý:
Hirudin có thể bào chế thành thuốc tiêm hoặc kem bôi, giúp giảm sưng viêm, tiêu máu tụ và hỗ trợ hồi phục sau chấn thương. Ở nhiều nước như Pháp hay Nga, hoạt chất này đã trở thành dược phẩm chính thống trong phẫu thuật tái tạo.
Trong y học cổ truyền, thủy diệt (tên gọi dược liệu của đỉa) được sao khô, nghiền mịn và dùng để điều trị trúng phong, rối loạn kinh nguyệt hoặc máu ứ.
Dù có nhiều công dụng, song việc sử dụng đỉa cần tuân thủ nghiêm ngặt chỉ định y khoa. Phụ nữ mang thai, người có rối loạn đông máu hoặc cơ địa dị ứng tuyệt đối không nên dùng các chế phẩm chứa hirudin. Việc tự ý sử dụng đỉa sống hoặc sản phẩm chưa qua kiểm nghiệm có thể gây nhiễm trùng, chảy máu kéo dài và dị ứng da.
Việc tìm hiểu về đặc tính sinh học của đỉa giúp người dân hiểu rõ hơn về cách phòng tránh hoặc ứng dụng chúng an toàn trong đời sống.
Đỉa rất sợ vôi bột. Khi tiếp xúc với vôi, cơ thể chúng co quắp lại và nhanh chóng bị tiêu diệt. Vì vậy, người dân thường rải vôi quanh bờ ao, ruộng để ngăn đỉa sinh sôi.

Một số loài cá, chim nước hoặc côn trùng có thể ăn đỉa. Tuy nhiên, do dịch nhầy chứa độc tính, số lượng kẻ thù tự nhiên của chúng không nhiều.
Đỉa là loài lưỡng tính, mỗi cá thể có cả cơ quan sinh dục đực và cái. Sau khi giao phối, chúng đẻ trứng thành từng cụm bám vào đất ẩm hoặc cây thủy sinh. Sau một thời gian, trứng nở thành đỉa con có hình dạng tương tự đỉa trưởng thành.
Một số loài như sên trần có hình dạng gần giống đỉa do thân mềm và sống trong môi trường ẩm. Tuy nhiên, sên trần không hút máu mà ăn thực vật, vì vậy không gây nguy hại như đỉa.
Đỉa và vắt cùng thuộc ngành Giun đốt nhưng khác về môi trường sống. Đỉa sống dưới nước còn vắt sống ở đất ẩm trong rừng. Vắt nhỏ hơn, di chuyển nhanh và thường bám vào da người khi đi rừng.
Để loại bỏ đỉa hiệu quả, có thể dùng vôi sống pha loãng với nồng độ 250 ppm, duy trì độ pH trên 8,6. Phương pháp này không chỉ tiêu diệt đỉa trưởng thành mà còn diệt cả trứng. Ngoài ra, có thể dùng hóa chất như Neguvon nhưng hiệu quả kém hơn vôi.
Toàn thân đỉa được sử dụng làm thuốc sau khi chế biến cẩn thận. Dược liệu khô có hình dẹt, cong, màu nâu đen và dễ gãy. Người ta thường cắt nhỏ, sao vàng hoặc sao với hoạt thạch để tăng hiệu quả.
Trong tuyến nước bọt của đỉa chứa hirudin, một chuỗi protein có khả năng ức chế đông máu mạnh, giúp lưu thông tuần hoàn và ngăn ngừa huyết khối. Chính nhờ hợp chất này mà đỉa được ứng dụng trong sản xuất thuốc điều trị tim mạch, phẫu thuật thẩm mỹ và phục hồi mạch máu.

Con đỉa tuy là loài ký sinh khiến nhiều người e ngại nhưng lại chứa đựng giá trị y học to lớn. Từ xa xưa, dân gian đã biết tận dụng đặc tính sinh học của đỉa để chữa bệnh, còn ngày nay, các hoạt chất trong chúng được khai thác bài bản hơn để sản xuất dược phẩm hiện đại. Hiểu đúng về con đỉa không chỉ giúp con người sử dụng chúng an toàn mà còn mở ra hướng nghiên cứu mới cho y học trong tương lai.
Dược sĩ Đại họcNguyễn Mỹ Huyền
Dược sĩ Đại học có nhiều năm kinh nghiệm trong việc tư vấn Dược phẩm và hỗ trợ giải đáp thắc mắc về Bệnh học. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.