Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở hơn 20.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ mỗi năm. Độ tuổi trung bình chẩn đoán ung thư buồng trứng là 63 tuổi. Bên cạnh đó, nguy cơ bị ung thư buồng trứng trong suốt cuộc đời của người phụ nữ là khoảng 1,4%.
Một số loại ung thư khác nhau có thể phát sinh trong buồng trứng người bệnh, mặc dù ung thư biểu mô buồng trứng là phổ biến nhất. Ngoài ra, ung thư ống dẫn trứng và ung thư phúc mạc nguyên phát, phát sinh từ ống dẫn trứng hoặc các mô nằm trong ổ bụng và vùng chậu, thường được đưa vào thảo luận chung vì chúng rất giống nhau về cách biểu hiện, tiên lượng và điều trị.
Sau khi ung thư buồng trứng được cắt bỏ bằng phẫu thuật, bệnh nhân vẫn còn nguy cơ sót lại các tế bào ung thư nhỏ li ti rải rác, có thể trở lại hoặc lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể về sau. Hãy cùng nhau theo dõi bài viết này để có những thông tin hữu ích cho việc điều trị ung thư buồng trứng biểu mô nhé!
Hóa trị là việc sử dụng những loại thuốc để ngăn chặn hoặc làm chậm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư. Hóa chất can thiệp vào khả năng của các tế bào phát triển nhanh chóng để phân chia hoặc tái tạo. Bởi vì hầu hết các tế bào bình thường của người trưởng thành không phân chia nhanh, chúng ít bị ảnh hưởng bởi hóa trị. Trường hợp ngoại lệ bao gồm các tế bào phân chia nhanh như tủy xương (nơi các tế bào hồng cầu và bạch cầu được tạo ra), tóc và lớp lót của đường tiêu hóa… Khi đó, hóa trị sẽ dẫn đến các phản ứng phụ như hạ bạch cầu, thiếu máu và rụng tóc…
Xem thêm: Ung thư cổ tử cung di căn hạch: Nguyên nhân và cách điều trị
Điều trị ung thư buồng trứng biểu mô được thực hiện với nhiều liệu pháp khác nhau
Thuốc hóa trị được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị ung thư buồng trứng là Taxanes (Paclitaxel hoặc Docetaxel) và các hợp chất Platinum/bạch kim (Carboplatin hoặc Cisplatin). Các nghiên cứu đã chứng minh rằng hóa trị chứa Platinum và Taxanes giúp cải thiện thời gian sống của phụ nữ bị ung thư buồng trứng so với các phác đồ khác. Sự kết hợp của một loại thuốc Platinum (thường là Carboplatin) và một Taxanes (thường là Paclitaxel) đang là phác đồ hóa trị tiêu chuẩn.
Hầu hết các loại thuốc hóa trị được tiêm truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ và một số nước tiên tiến khác, bệnh ở giai đoạn III đã cắt bỏ tối ưu (cắt sạch hoặc chỉ còn những khối u nhỏ hơn 1 cm), hóa trị trực tiếp trong khoang bụng có thể được kết hợp với hóa trị qua tĩnh mạch (điều trị IV/IP).
Do đó, bất kể dùng theo cách nào, thuốc hóa trị cần được truyền cẩn thận theo trình tự chuẩn xác về liều lượng và thời gian, lặp lại theo chu kỳ. Trong thời gian này, bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu ngộ độc thuốc và tác dụng phụ nếu có nào.
Sau khi ung thư buồng trứng được cắt bỏ bằng phẫu thuật, bệnh nhân vẫn còn nguy cơ sót lại các tế bào ung thư nhỏ li ti rải rác, có thể trở lại hoặc lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể về sau. Hóa trị sau phẫu thuật là một phương pháp giúp tiêu diệt các tế bào này và cải thiện cơ hội chữa lành ung thư buồng trứng đồng thời giảm nguy cơ tử vong do ung thư gây ra. Sự cần thiết của việc thực hiện hóa trị còn phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và loại tế bào, được xác định tại thời điểm thực hiện phẫu thuật. Do đó, hóa trị được khuyến cáo cho tất cả các bệnh nhân mới được chẩn đoán ngoại trừ trường hợp giai đoạn IA hoặc IB (giai đoạn sớm). Khi bệnh ở giai đoạn sớm, chỉ cần phẫu thuật là có hiệu quả và không cần điều trị thêm.
Hầu hết các loại thuốc hóa trị ung thư đều được tiêm truyền tĩnh mạch
Nhu cầu hóa trị sau phẫu thuật, loại thuốc và thời gian điều trị được khuyến cáo phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và tính xâm lấn của khối u. Cụ thể như sau:
Giai đoạn I
Sau phẫu thuật, hầu hết phụ nữ mắc ung thư giai đoạn IA hoặc IB có kết quả tốt mà không cần hóa trị. Theo dõi sau mổ đơn thuần là cách thường làm và là lựa chọn tiêu chuẩn. Ung thư giai đoạn IA hoặc IB với độ xâm lấn cao và tất cả giai đoạn IC nên được hóa trị sau khi phẫu thuật sử dụng paclitaxel và carboplatin. Việc điều trị thường bắt đầu trong vòng hai đến sáu tuần sau khi mổ. Mỗi chu kỳ hóa trị được thực hiện trong 3 tuần với tổng số 6 chu kỳ. Tuy nhiên, thời gian hóa trị tối ưu ở giai đoạn I vẫn còn đang tranh cãi.
Giai đoạn II
Tất cả phụ nữ bị bệnh giai đoạn II, ví dụ như u bên ngoài buồng trứng nhưng vẫn giới hạn ở khung chậu, đều cần hóa trị sau phẫu thuật. Hầu hết các bác sĩ chuyên khoa ung thư đều thực hiện 6 chu kỳ paclitaxel cộng với carboplatin truyền tĩnh mạch. Một số bác sĩ sử dụng hóa trị trong ổ bụng kết hợp ở giai đoạn này, mặc dù không có bằng chứng cho thấy việc kết hợp IV/IP có lợi hơn.
Giai đoạn III
Tất cả phụ nữ bị bệnh giai đoạn III đều cần hóa trị sau phẫu thuật. Tuy nhiên, cách thực hiện này cần phải đặt một ống thông vào trong bụng qua ca mổ lần đầu hoặc làm thêm ca thứ hai. Bên cạnh đó, cũng có thể gây ra độc tính đáng kể mà nhiều người không chịu được. Hơn thế nữa, không phải tất cả các thử nghiệm lâm sàng đều xác nhận kết quả vượt trội của IP.
Giai đoạn IV
Tất cả phụ nữ bị bệnh giai đoạn IV đều cần hóa trị. Mặc dù tiên lượng thường xấu hơn khi so với những người mắc bệnh giai đoạn sớm, hóa trị được dùng để kiểm soát bệnh và giảm triệu chứng do ung thư. Trong trường hợp này, carboplatin và paclitaxel thường được sử dụng và tiếp tục, miễn là cơ thể còn dung nạp được và có lợi ích trên tổng thể cho người bệnh.
Hóa trị có thể gây ra tác dụng phụ trong và sau khi điều trị. Loại và mức độ nghiêm trọng của những tác dụng phụ này phụ thuộc vào loại thuốc và cách sử dụng. Các tác dụng phụ xảy ra trong quá trình hóa trị thường là tạm thời và có thể hồi phục. Các tác dụng phụ thường gặp nhất là buồn nôn, nôn, đau miệng, giảm lượng bạch cầu, thiếu máu và rụng tóc. Bên cạnh đó, một số loại thuốc hóa tri có thể gây ra các tác dụng phụ khác như tăng huyết áp, chảy máu mũi, chóng mặt, đau đầu và làm lâu lành vết thương, tăng nguy cơ thủng ruột trong khi điều trị, nhất là khi có khối u xâm lấn đường tiêu hóa gây tắc ruột hoặc bệnh nhân từng mắc bệnh viêm ruột.
Hóa trị có thể gây ra tác dụng phụ trong và sau khi điều trị ung thư
Trong hầu hết các trường hợp, hóa trị được đưa ra sau ca mổ cắt khối u, tuy nhiên một số bác sĩ có thể đề nghị hóa trị một số chu kỳ trước ca mổ. Cách thực hiện này có thể giúp giảm biến chứng phẫu thuật và cải thiện tỉ lệ cắt bỏ hoàn toàn ở những bệnh nhân có khối u lớn. Ngoài ra, hóa trị trước mổ có thể được dùng khi việc phẫu thuật từ đầu được coi là quá nguy hiểm vì ung thư đã xâm lấn rộng.
Khi kết thúc quá trình điều trị (cả phẫu thuật và hóa trị), bệnh nhân được coi là có “đáp ứng hoàn toàn” nếu kiểm tra sức khỏe cho kết quả bình thường, không có bằng chứng khối u trên các chẩn đoán hình ảnh (như chụp cắt lớp CT scan) và nồng độ chất chỉ thị ung thư CA-125 trong máu là bình thường. Tuy nhiên, ngay cả khi tất cả các tiêu chuẩn này được đáp ứng, vẫn có thể có một lượng nhỏ ung thư còn sót lại do không nhìn thấy được qua xét nghiệm hình ảnh.
Sự phát triển của các tế bào ung thư ở mức vi mô này có lẽ là nguyên nhân gây tái phát sau đó. Để theo dõi khả năng ung thư buồng trứng tái phát, các bác sĩ thường yêu cầu lặp lại các xét nghiệm máu, thăm khám và xét nghiệm hình ảnh định kỳ, ít nhất trong 5 năm sau khi kết thúc điều trị.
Các bác sĩ thường yêu cầu lặp lại các xét nghiệm máu định kì cho bệnh nhân trong 5 năm
Ngay cả khi bệnh nhân tiêu diệt được hoàn toàn khối u nhờ liệu pháp ban đầu, sự tái phát cũng có thể xảy ra sau đó. Khả năng tái phát cao hơn khi bệnh ở giai đoạn muộn hơn khi chẩn đoán, đặc biệt nếu ca mổ không thể loại bỏ tất cả khối u có thể nhìn thấy. Sự tái phát có triệu chứng như đau bụng, hoặc đầy hơi, đau lưng… hoặc dấu hiệu lâm sàng như sờ thấy khối u ở vùng chậu…
Trong quá khứ, điều trị ung thư buồng trứng tái phát đôi khi được khuyến cáo chỉ dựa trên sự tăng nồng độ chất chỉ thị ung thư, thay vì chờ đợi cho đến khi các triệu chứng xuất hiện rõ. Tuy nhiên, một nghiên cứu lớn sau đó cho thấy không có lợi ích sống sót khi bắt đầu hóa trị sớm như vậy. Chất lượng cuộc sống có thể được giữ tốt hơn, cải thiện hơn bằng cách đợi cho đến khi có triệu chứng hoặc dấu hiệu tái phát rõ ràng.
Sự tái phát ung thư có triệu chứng như đau bụng, hoặc đầy hơi...
Bệnh nhân tái phát sau khi đáp ứng hoàn toàn và những người không đáp ứng tốt với hóa trị ban đầu có thể cân nhắc tiếp tục hóa trị theo phác đồ bậc 2. Việc lựa chọn các thuốc hóa trị liệu cho điều trị bậc hai phụ thuộc vào việc bệnh nhân có đáp ứng với điều trị đầu tiên (phác đồ bậc 1) hay không, thời gian từ khi đáp ứng, tác dụng phụ do hóa trị trước đó và các triệu chứng hiện tại.
Nếu điều trị ban đầu với hóa trị có đáp ứng tốt và đáp ứng duy trì kéo dài ít nhất sáu tháng, bệnh nhân được coi là có “ung thư buồng trứng nhạy với platinum”. Trong trường hợp này, tại thời điểm tái phát, việc điều trị “lặp lại” bằng phác đồ dựa trên hợp chất platinum thường được khuyến cáo. Trên thực tế, nếu đáp ứng ban đầu kéo dài hơn 24 tháng, có tới 25% số bệnh nhân sẽ có đáp ứng hoàn toàn nhờ platinum. Nói chung, liệu pháp kết hợp dựa trên platinum thường được đề nghị thay vì một loại hóa trị đơn độc.
Các nghiên cứu trên những bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận cũng đã chứng minh lợi ích của việc lặp lại phẫu thuật, đặc biệt nếu khối u có thể được loại bỏ dễ dàng và người bệnh không bị tái phát trong hơn 6-12 tháng. Vì vậy, lặp lại phẫu thuật có thể là một lựa chọn.
Nếu bệnh dai dẳng hoặc không đáp ứng với Paclitaxel và Platinum hoặc nếu tái phát trong vòng 6 tháng sau khi hoàn thành điều trị, bệnh nhân thuộc nhóm có “ung thư kháng platinum”. Hầu hết phụ nữ trong tình trạng này được điều trị bằng một loại hóa trị với một tác nhân duy nhất.
Lưu ý: Bài viết "Điều trị ung thư buồng trứng biểu mô" chỉ cung cấp thông tin chung, không thay thế lời khuyên từ bác sĩ. Người bệnh và người thân cần tư vấn bác sĩ điều trị để xem xét lựa chọn điều trị phù hợp nhất.
Hoàng Yến
Nguồn tham khảo: yhoccongdong.com