Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu

Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm

Long Châu

Ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính và những điều cần biết

Ngày 15/01/2024
Kích thước chữ
  • Mặc định

  • Lớn hơn

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến, mức độ nguy hiểm cao và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ trên thế giới. Hai hormone quan trọng ở nữ giới đó là estrogen và progesterone ngoài việc đóng vai trò trong việc điều hoà chu kỳ kinh nguyệt mỗi tháng mà còn có thể là tác nhân gây ra bệnh ung thư. Vậy ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là gì?

Ung thư vú là bệnh lý nguy hiểm, không đồng nhất, đa dạng về kiểu hình. Những khối u này mang một loại công tắc sinh học có tên gọi là thụ thể nội tiết. Estrogen và progesterone có khả năng gắn vào thụ thể nội tiết này và kích hoạt các tế bào ung thư phát triển. Theo thống kê, khoảng 70% ung thư vú ở phụ nữ đều nhạy cảm với estrogen và progesterone. Mời bạn cùng tìm hiểu ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là gì và mức độ nguy hiểm của bệnh ra sao thông qua bài viết dưới đây.

Ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là gì?

Thụ thể nội tiết có bản chất là protein nằm trên bề mặt hoặc trong tế bào, có khả năng gắn với hormone lưu thông trong máu. Những thụ thể này được ví như là tai và mắt của các tế bào, giúp nhận thông tin từ hormone trong máu để điều khiển hoạt động của tế bào. Đối với tế bào tuyến vú, kể cả tế bào bình thường và một số tế bào ung thư vú có những thụ thể để gắn với hormone estrogen và progesterone.

Ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là loại ung thư vú phát triển khi có sự đáp ứng với nội tiết tố. Những tế bào ung thư vú có chứa các thụ thể để gắn vào các hormone estrogen và progesterone để phát triển những tế bào này.

ung-thu-vu-thu-the-noi-tiet-duong-tinh-va-nhung-dieu-can-biet 1.jpg
Ung thư vú là bệnh lý nguy hiểm, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nữ giới

Các khối tế bào ung thư vú có thể chứa một, hai hoặc không chứa thụ thể nào dưới đây:

  • Estrogen receptor - ER dương tính (ER+): Tế bào ung thư có chứa thụ thể estrogen (ER). Sau khi kiểm tra, kết quả ER+ có thể cho thấy tế bào ung thư vú tiếp nhận được tín hiệu từ hormone estrogen, từ đó thúc đẩy sự phát triển của những tế bào ung thư này.
  • Progesterone receptor - PR dương tính (PR+): Tế bào ung thư có chứa thụ thể progesterone (PR). Kết quả xét nghiệm cho kết quả PR+ có thể cho thấy rằng, các tế bào ung thư vú nhận được tín hiệu từ hormone progesterone để thúc đẩy sự tăng sinh, phát triển của những tế bào này.
  • Thụ thể nội tiết tố dương tính (HR+): Khi tế bào ung thư vú có mang một hoặc cả hai loại thụ thể trên thì được kết luận là HR+ hay còn gọi là thụ thể - hormone dương tính.
  • Thụ thể nội tiết tố âm tính (HR-): Không phát hiện thụ thể ER hoặc PR trong tế bào ung thư.

Khối u xuất hiện ở vú là triệu chứng phổ biến thường gặp nhất ở những người mắc ung thư thụ thể nội tiết dương tính. Ngoài ra, người bệnh còn có thể gặp một số triệu chứng khác như thay đổi hình dạng của vú, tiết dịch núm vú, cảm thấy đau ở vú hoặc núm vú, xuất hiện vết lõm ở vùng da trên vú,…

Các yếu tố nguy cơ của ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính

Tương tự với các loại ung thư vú khác, ung thư vú HR+ cũng có những yếu tố nguy cơ như:

  • Tuổi tác: Theo các nghiên cứu, phụ nữ càng trẻ thì khả năng dương tính với ung thư vú thụ thể nội tiết càng cao.
  • Phụ nữ trên 50 tuổi.
  • Mang gen BRCA1 và BRCA2 được di truyền từ thế hệ trước.
  • Xuất hiện kinh nguyệt sớm, trước 12 tuổi hoặc mãn kinh sau 55 tuổi.
  • Cấu tạo mô vú dày đặc.
  • Bị thừa cân sau mãn kinh.
  • Sử dụng các liệu pháp thay thế hormone hoặc thuốc tránh thai.
  • Sử dụng chất kích thích, uống rượu bia.
  • Tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng.
ung-thu-vu-thu-the-noi-tiet-duong-tinh-va-nhung-dieu-can-biet 2.jpg
Người trẻ có khả năng mắc ung thư thụ thể nội tiết dương tính cao hơn so với người lớn tuổi

Phương pháp điều trị

Bên cạnh những phương pháp điều trị ung thư vú thông thường như phẫu thuật, xạ trị, hoá trị thì liệu pháp nội tiết tố hay còn gọi là liệu pháp hormone là phương pháp hiệu quả, có thể sử dụng để điều trị tất cả các giai đoạn của ung thư vú HR+.

Cơ chế của thuốc trị liệu nội tiết tố hoạt động như sau:

  • Ngăn chặn việc sản xuất estrogen trong cơ thể;
  • Ngăn chặn tác dụng của estrogen lên tế bào ung thư;
  • Đối với bệnh nhân ung thư vú âm tính với thụ thể nội tiết, đây không phải là phương pháp được lựa chọn để điều trị.

Có ba loại thuốc điều trị nội tiết tố được sử dụng cho người bệnh ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính:

Ức chế aromatase

Các chất ức chế aromatase hoạt động bằng cách ức chế enzym aromatase, một loại enzym làm biến đổi hormone androgen thành estrogen trong cơ thể. Chất ức chế aromatase chỉ ức chế enzym chuyển hóa hormone androgen thành estrogen và không có khả năng ngăn chặn buồng trứng tạo ra estrogen. Vì lý do trên, thuốc này thường được sử dụng để điều trị cho phụ nữ sau mãn kinh.

Đôi khi, thuốc thuộc nhóm này cũng được sử dụng cho phụ nữ tiền mãn kinh đã điều trị ức chế buồng trứng. Sau khi sử dụng thuốc ức chế buồng trứng sản xuất estrogen hoặc đã cắt bỏ buồng trứng, hầu hết những người này sẽ được chuyển sang sử dụng thuốc ức chế aromatase thay vì dùng tamoxifen.

Chất ức chế aromatase gồm có arimidex (anastrozole), aromasin (exemestane) và femara (letrozole). Bisphosphonate cũng có thể được sử dụng kết hợp với thuốc ức chế aromatase để điều trị ung thư vú HR+ giai đoạn sau mãn kinh, để ngăn ngừa nguy cơ tái phát ung thư di căn đến xương.

Bộ điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (SERM)

SERM sẽ cạnh tranh vị trí gắn với estrogen trên các thụ thể estrogen của tế bào, từ đó giúp ngăn chặn tác dụng của estrogen trên các tế bào ung thư vú, ức chế sự nhân đôi và phát triển của các tế bào này.

SERM thường được dùng để điều trị ung thư vú thụ thể nội tiết cho cả phụ nữ trước và sau mãn kinh, ngoài ra cũng có thể sử dụng trên nam giới.

Thuốc điều hòa thụ thể estrogen (ERD)

Cũng tương tự như cơ chế của SERM, các thuốc điều hòa thụ thể estrogen cũng sẽ ngăn chặn tác dụng của estrogen trên các tế bào ung thư. Cơ chế hoạt động của ERD là làm giảm số lượng và thay đổi hình dạng của các thụ thể estrogen trên tế bào ung thư vú để estrogen không nhận biết được và không gắn vào vị trí gắn được.

Thuốc ức chế CDH4/6

Thuốc ức chế CDH4/6 là liệu pháp nhắm trúng đích có thể sử dụng để điều trị ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính, HER2 âm tính. Thuốc này sẽ can thiệp vào quá trình phân chia và nhân lên của tế bào ung thư vú, để ngăn cản quá trình phát triển của chúng. Mục tiêu của thuốc này là các protein kinase thuộc cyclin 4 và 6 hay viết tắt là CDK4/6.

Liệu pháp nhắm trúng đích mang lại hiệu quả tốt, ít gây tổn hại đến những tế bào khỏe mạnh, an toàn hơn liệu phát hoá trị cũng như xạ trị hay phẫu thuật.

ung-thu-vu-thu-the-noi-tiet-duong-tinh-va-nhung-dieu-can-biet 3.jpg
Phát hiện sớm và sử dụng phương pháp điều trị phù hợp giúp giảm mức độ nguy hiểm của bệnh

Việc lựa chọn loại thuốc điều trị phụ thuộc vào tình trạng mãn kinh của người bệnh:

  • Trước mãn kinh buồng trứng sẽ sản xuất lượng lớn estrogen cho cơ thể. Vì thế trong trường hợp này, bác sĩ thường chỉ định dùng phương pháp SERM với thuốc thường được dùng nhất là tamoxifen.
  • Sau mãn kinh, lượng estrogen trong cơ thể còn rất ít, nguồn estrogen chủ yếu được sản xuất từ quá trình chuyển hóa androgen thành estrogen dưới tác dụng của enzym aromatase. Vì vậy, thuốc phù hợp dùng trong trường hợp này đó là thuốc ức chế aromatase.

Bài viết trên đã cung cấp những thông tin về ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là gì. Những yếu tố nguy cơ và phương pháp điều trị của bệnh. Việc phát hiện càng sớm, lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp sẽ góp phần tăng khả năng điều trị thành công, giảm tỷ lệ tử vong. Vì vậy, những người phụ nữ cần chú ý kiểm tra sức khỏe định kỳ, đặc biệt tầm soát ung thư vú để đảm bảo sức khỏe của bản thân.

Xem thêm: Tình trạng thụ thể nội tiết trong ung thư vú là thế nào?

Có thể bạn quan tâm

Thông tin và sản phẩm gợi ý trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể. Xem thêm