Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩPĂNG TING K'LiNa
Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Viêm mủ nội nhãn là tình trạng viêm nhãn khoa được đặc trưng bởi sự viêm nhiễm rõ rệt của các mô và dịch nội nhãn. Đây là tình trạng viêm mủ của dịch nội nhãn (thủy tinh thể và thủy dịch) thường do nhiễm trùng. Bệnh viêm nội nhãn rất hiếm khi xảy ra và mắt bên phải có nguy cơ bị nhiễm trùng cao gấp hai lần so với mắt bên trái.
Viêm mủ nội nhãn là một loại viêm nhiễm toàn nhãn cấp tính của các khoang nội nhãn (tức là thủy dịch và/hoặc thủy tinh thể), thường do nhiễm trùng do vi khuẩn. Viêm mủ nội nhãn được đặc trưng bởi sự viêm nhiễm rõ rệt của các mô và dịch nội nhãn. Viêm nội nhãn nhiễm trùng có thể được phân loại theo nguyên nhân gây nhiễm trùng, giúp dự đoán nguyên nhân cơ bản và các sinh vật gây bệnh có khả năng nhất. Viêm nội nhãn nhiễm trùng là một chẩn đoán lâm sàng nhưng được xác nhận bằng đánh giá các bệnh phẩm dịch nội nhãn.
Viêm nội nhãn không do nhiễm trùng (vô trùng) có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn như vật liệu thủy tinh thể gốc được giữ lại sau khi phẫu thuật hoặc do các tác nhân độc hại.
Người ta phân chia viêm mủ nội nhẫn thành hai dạng như sau:
Viêm mủ nội nhãn ngoại sinh:
Viêm mủ nội nhãn nội sinh:
Trong viêm nội nhãn cấp tính do vi khuẩn sau phẫu thuật, thường có biểu hiện đỏ và mất thị lực khởi phát cấp tính và các mối liên quan với viêm nội nhãn rõ rệt, viêm tiền phòng, fibrin và hypopyon có thể ghi nhận phù nề mi mắt, sung huyết kết mạc, viêm thể thủy tinh và viêm quanh thận võng mạc.
Viêm nội nhãn mãn tính sau phẫu thuật thường được đánh dấu bằng tình trạng viêm tương đối nhẹ nhưng tiến triển và diễn biến không thoải mái. Trong viêm nội nhãn liên quan đến lọc mủ, các đặc điểm lâm sàng bao gồm viêm nội nhãn có mủ, cũng như viêm thủy tinh thể và thủy tinh thể, bao gồm hypopyon.
So với viêm nội nhãn do vi khuẩn, viêm nội nhãn do nấm thường ít viêm hơn, diễn tiến nhẹ nhàng hơn và ít đau hơn. Viêm nội nhãn nội sinh do Candida thường biểu hiện bằng những thâm nhiễm trắng cô lập trong dịch kính hình thành bên trên một vùng khu trú của viêm túi mật.
Viêm nội nhãn là một bệnh nghiêm trọng, có thể gây mất thị lực vĩnh viễn nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Viêm nội nhãn liên quan đến viêm giác mạc do vi sinh vật được gây ra bởi các sinh vật Gram âm, Gram dương, các loại liên cầu và các loại nấm khác nhau. Hầu hết các trường hợp viêm mủ nội nhãn đều do vi khuẩn Gram dương, như Staphylococcus epidermidis hoặc là S. aureus. Viêm mủ nội nhãn gây ra bởi các sinh vật gram âm thường có độc tính cao hơn và có tiên lượng xấu hơn. Các sinh vật gây bệnh phổ biến nhất bao gồm các loài Candida albicans và Aspergillus.
Trong bệnh viêm nội nhãn nội sinh do vi khuẩn, các sinh vật gây bệnh phổ biến nhất là B. cereus , Staphylococcus aureus, Klebsiella ,Pseudomonas và các loài Streptococcus. Các đợt bùng phát viêm giác mạc do Fusarium có liên quan đến việc đeo kính áp tròng mềm, và hàng loạt các đợt viêm nội nhãn ở mắt do viêm giác mạc do Fusarium đã được báo cáo.
Hầu hết các trường hợp xảy ra sau khi phẫu thuật nội nhãn (ngoại sinh) hoặc chấn thương nhãn cầu hở. Viêm nội nhãn sau chấn thương thường do các sinh vật độc lực hơn, chẳng hạn như Bacillus cereus gây ra. Ít phổ biến hơn, nhiễm trùng đến mắt qua đường máu sau phẫu thuật toàn thân hoặc thủ thuật nha khoa hoặc khi dùng thuốc đường tĩnh mạch (nội sinh). Viêm nội nhãn nhiễm trùng sau khi tiêm thuốc trong thực vật thường do tụ cầu âm tính với Coagulase.
Viêm mủ nội nhãn có thể được chia thành 3 loại dựa trên mức độ biểu hiện lâm sàng:
Sau khi vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào mắt, chúng phát triển và nhân lên trong mắt và sinh ra ngoại độc tố, nội độc tố, gây ra phản ứng viêm nặng ở mô mắt và hàng loạt triệu chứng lâm sàng. Thời gian ủ bệnh này thay đổi tùy thuộc vào độc lực của vi khuẩn gây bệnh, khả năng đáp ứng của người nhiễm bệnh cũng như mức độ phòng ngừa và kiểm soát, nhưng nhìn chung là khoảng 3 ngày.
Viêm mủ nội nhãn có thể phá hủy nhanh chóng và nghiêm trọng các mô mắt và làm suy giảm thị giác. Nếu tình trạng viêm không được kiểm soát kịp thời và hiệu quả sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng là mất thị lực và teo nhãn cầu. Nếu được kiểm soát sớm, một số chức năng thị giác có thể được bảo tồn.
Viêm mủ nội nhãn có các triệu chứng rõ ràng như đỏ mắt, đau, sợ ánh sáng, chảy nước mắt, giảm thị lực rõ rệt, sung huyết, phù nề mí mắt và kết mạc, đục giác mạc, thậm chí áp xe mô đệm, thủy dịch đục,...
Điều trị bằng thuốc:
Điều trị bằng phẫu thuật:
Hỏi đáp (0 bình luận)