Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Epinephrine (Adrenaline).
Loại thuốc
Thuốc kích thích giao cảm, chất chủ vận trên receptor alpha/beta adrenergic.
Thuốc chống phản vệ.
Thuốc hô trợ cho thuốc gây tê.
Thuốc giãn phế quản.
Thuốc chống sung huyết.
Thuốc co mạch.
Dạng thuốc và hàm lượng
Dung dịch tiêm 0,1 mg/ml (0,1:1 000), 1 mg/ml (1:1 000) adrenaline dưới dạng muối hydroclorid.
Thuốc nhỏ mắt, dung dịch 1%.
Thuốc phun định liều 280 microgram adrenaline acid tartrat môi lần phun.
Thuốc phối hợp với thuốc chống hen.
Thuốc phối hợp với thuốc khác.
Dung dịch khí dung: 0,22 mg/nhát xịt.
Việc chỉ định và sử dụng adrenaline phải do thầy thuốc có kinh nghiệm thực hiện.
Adrenaline (epinephrine) là thuốc tác dụng trực tiếp giống giao cảm, kích thích cả thụ thể alpha và thụ thể beta, nhưng lên thụ thể beta mạnh hơn thụ thể alpha. Các tác dụng dược lý của adrenaline rất phức tạp. Tác dụng của thuốc tương tự như những gì xảy ra khi kích thích các sợi sau hạch giao cảm, tức là kích thích các sợi thần kinh tiết adrenaline.
Tác dụng của thuốc thay đổi nhiều theo liều dùng và phản xạ bù trừ của cơ thể. Trên tim - mạch, adrenaline có tác dụng làm tăng tần số và tăng lực bóp cơ tim; làm tăng thể tích tâm thu và mức tiêu thụ oxy của cơ tim, tăng lưu lượng mạch vành, tăng sức cản ngoại vi gây tăng huyết áp tâm thu. Khi được truyền tĩnh mạch, thuốc làm giảm sức cản ngoại vi và huyết áp tâm trương, lúc đầu tần số tim tăng, nhưng sau đó giảm do phản xạ phó giao cảm.
Hầu hết adrenaline uống vào bị bất hoạt bơi enzym phân giải ơ ruột và bị chuyển hóa khi qua gan lần đầu.
Dạng hít hoặc khí dung: Tác dụng xuất hiện chỉ sau 1 phút.
Thuốc có tác dụng nhanh khi được tiêm bắp hoặc dưới da (đường dưới da có chậm hơn tiêm bắp). Tác dụng co mạch tại chỗ thường xuất hiện sau 5 phút kể từ khi nhỏ hoặc tiêm vào nội nhãn cầu và thường kéo dài không quá 1 giờ.
Khi nhỏ hoặc tiêm thuốc vào kết mạc, niêm mạc hoặc nội nhãn cầu, thuốc có thể hấp thu gây ra các tác động giống giao cảm trên phạm vi toàn thân.
Không có thông tin.
Adrenaline nhanh chóng bị bất hoạt trong cơ thể, chủ yếu ở gan bởi các enzym catechol-O-methyltransferase (COMT) và monoamine oxidase (MAO).
Các sản phẩm chuyển hóa được bài xuất theo nước tiểu dưới dạng không còn hoạt tính, một số được bài xuất dưới dạng nguyên vẹn hoặc liên hợp.
Thuốc chen beta: Tác dụng làm tăng huyết áp của adrenaline tăng lên một cách đáng kể ở người bệnh dùng thuốc chẹn beta không chọn lọc như propranolol. Không được dùng thuốc ức chế beta không chọn lọc (như propranolol) cho người bị hen, vì có thể gây ra co thắt phế quản.
Thuốc ức chế mono amino oxydase (MAO): Tác dụng làm tăng huyết áp của adrenaline có thể không thay đôi hoặc chỉ thay đôi ít ở người bệnh có dùng thuốc ức chế MAO.
Thuốc gây mê: Người bệnh bị gây mê bằng các thuốc mê bay hơi (cyclopropan, enfluran, halothan, isofluran, fluroxen, methoxyfluran, diethyl ether) có nguy cơ bị loạn nhịp tim nếu dùng adrenaline, trừ khi với liều rất nhỏ.
Alkaloid của Rauwolfa: Khi có các alkaloid của Rauwolfa, thì tác dụng tăng huyết áp của adrenaline hơi tăng lên.
Thuốc chống trầm cảm ba vòng: Đáp ứng rất mạnh khi được tiêm adrenaline (tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim...). Ngay các thuốc gây tê tại chỗ có adrenaline cũng không nên dùng cho những người bệnh này.
Ma hoàng, yohimbin: Tránh dùng đồng thời vì có thể gây kích thích thần kinh trung ương.
Adrenaline tương kỵ với các dung dịch kiềm (như natri bicarbonat).
Adrenaline chống chỉ định trong các trường hợp:
Người lớn
Choáng phản vệ:
Adrenaline là thuốc ưu tiên lựa chọn để điều trị choáng phản vệ. Liều ban đầu nên dùng là tiêm dưới da hoặc tiêm bắp từ 0,3 đến 0,5 ml dung dịch 1:1000, cứ 20 hoặc 30 phút tiêm nhắc lại một lần.
Nếu tiêm bắp hoặc tiêm dưới da không có tác dụng, thì phải dùng đường tĩnh mạch; liều tiêm tĩnh mạch là từ 3 đến 5 ml dung dịch nồng độ 1:10000; các lần cách nhau từ 5 đến 10 phút. Nếu trụy tim mạch nặng thì phải tiêm trực tiếp adrenaline vào tim. Trong trường hợp sốc, khó thở nặng hay khi có cản trở ở đường hô hấp thì nên dùng đường tĩnh mạch.
Ngừng tim:
Adrenaline là thuốc ưu tiên để điều trị ngừng tim. Liều thường được khuyên dùng là tiêm tĩnh mạch từ 0,5 đến 1 mg, cách nhau từ 3 đến 5 phút. Với người đã bị ngừng tim trước khi vào viện thì có khi phải dùng liều cao hơn nhiều (tới 5 mg tiêm tĩnh mạch).
Có thể truyền adrenaline liên tục (0,2 đến 0,6 mg/phút), nếu cần thiết. Cũng có thể tiêm thẳng vào tim 0,1 - 1,0 mg adrenaline pha trong vài ml dung dịch muối hay dung dịch glucose đẳng trương.
Sốc nhiễm khuẩn:
Trong trường hợp điều trị sốc nhiễm khuẩn nặng bằng truyền dịch, truyền dopamin một mình hoặc kết hợp với dobutamin bị thất bại, thì truyền adrenaline vào tĩnh mạch (0,5 đến 1 microgam/kg/phút) có thể có kết quả tốt.
Cơn hen phế quản nặng:
Liều 0,5 mg adrenaline tiêm dưới da được coi là liều tối ưu để điều trị cơn hen cấp tính tốt, mà lại tác động ít nhất lên hệ tim - mạch. Không nên coi tăng huyết áp và tim nhanh là chống chỉ định đối với dùng adrenaline liều này, nếu người bệnh không bị bệnh tăng huyết áp hay bệnh tim từ trước.
Đục nhân mắt: Nhỏ vào trong nhãn cầu dung dịch adrenaline 1: 1.000.000 có tác dụng duy trì giãn đồng tử tốt và an toàn trong lúc mô.
Ngộ độc cloroquin: Kết hợp diazepam và adrenaline cùng với hô hấp hô trợ có thể có tác dụng tốt để điều trị ngộ độc cloroquin. Adrenaline liều 0,25 microgam/kg tiêm tĩnh mạch bằng bơm tiêm tự động, sau đó truyền với liều 0,25 microgam/kg/phút cho đến khi huyết áp tâm thu cao hơn 100 mm Hg.
Glôcôm: Nhỏ adrenaline vào mắt bị glôcôm góc mở nguyên phát có tác dụng làm giảm kéo dài nhãn áp và gây co mạch màng tiếp hợp. Trong điều trị glôcôm góc mở nguyên phát và các glôcôm mạn tính khác, adrenaline thường được chỉ định bổ sung để chống co đồng tử.
Dùng phối hợp với timolol (sau 2 tuần dùng timolol thì dùng thêm adrenaline) có tác dụng tốt hơn.
Chảy máu đường tiêu hóa trên: Tiêm 0,5 ml dung dịch adrenaline (1:10.000) chia làm nhiều mũi vào giữa và xung quanh ô chảy máu cho đến khi máu ngừng chảy.
Herpes simplex: Bôi dung dịch adrenaline (1:1 000) vào chô tổn thương. Bôi 30 phút một lần hoặc tùy yêu cầu nhằm duy trì vùng được bôi có màu nhợt trong 3 - 4 giờ đầu tiên.
Giảm đau trong sản khoa: Adrenaline thường được cho thêm vào các thuốc tê tại chỗ để tăng giảm đau hoặc để tăng cường và kéo dài gây tê ngoài màng cứng. Thêm 0,2 mg adrenaline vào hôn hợp thuốc gây tê có 10 microgam sufentanil và 2,5 mg bupivacain có tác dụng kéo dài giảm đau khi đẻ mà không gây tác dụng phụ có ý nghĩa lâm sàng cho cả thai nhi lẫn người mẹ.
Gây tê tại chỗ: Phối hợp adrenaline với các dung dịch thuốc tê tại chô (như tetracain/adrenaline/cocain hay tetracain/lidocain/adrenaline) có tác dụng giảm đau tốt trong một số tiểu phẫu thuật (khâu các vết rách không bị nhiễm khuẩn hay phức tạp ở mặt và da đầu) ở trẻ em.
Dương vật cương đau (priapism): Tiêm riêng adrenaline vào dương vật hay kết hợp với tiêm bắp leuprolid có tác dụng điều trị cơn đau dương vật. Tiêm vào dương vật 20 ml adrenaline 1:1.000.000 trong dung dịch natri clorid 0,9%, vừa tiêm, vừa hút ra.
Trẻ em
Ngừng tim:
Tiêm adrenaline vào tĩnh mạch, vào khí quản hay vào tim có tác dụng tốt trong điều trị ngừng tim do rung thất. Adrenaline chủ yếu được sử dụng trong trường hợp điều trị rung thất bằng sốc điện thất bại. Liều khuyên dùng ở trẻ em là 7 - 27 microgam/kg (trung bình là 10 microgam/kg).
Thở khò khè ở trẻ nhỏ: Adrenaline tiêm dưới da có tác dụng tốt để điều hòa cơn khó thở rít ở trẻ dưới 2 tuổi. Adrenaline (1 mg/1 ml) được tiêm với liều 0,01 ml/kg.
Viêm thanh - khí quản: Adrenaline dạng khí dung racemic hoặc levo - adrenaline cùng với các thuốc khác, bao gồm cả các steroid (như dexamethason) và dạng thuốc phun sương có tác dụng trong điều trị viêm thanh - khí quản gây khó thở ở trẻ từ 6 tháng đến 6 tuổi.
Dung dịch tiêm adrenaline có thể dùng tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, tiêm nội nhãn cầu, tiêm dưới da hoặc nội khí quản. Tiêm dưới da thường hấp thu chậm hơn và kém hiệu quả hơn. Tiêm bắp: Cần tránh tiêm vào mông, nên tiêm vào vùng phía trước bên ngoài của đùi trong trường hợp sốc phản vệ. Cấm tuyệt đối tiêm adrenaline chưa được pha loãng vào tĩnh mạch.
Dạng hít: Dung dịch cần pha loãng, hít trong vòng 15 phút trở lên.
Nội khí quản: Hòa thuốc trong nước cất. Khi thuốc qua cathete vượt qua đầu của ống khí quản, xịt thuốc nhanh vào khí quản, ngay lập tức bơm nhanh vài lần và tiếp tục ép ngực.
Liều lượng phải được tính toán theo mức độ nặng nhẹ và theo đáp ứng của từng người bệnh.
Đau đầu, mệt mỏi, đô mồ hôi, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, hồi hộp, đánh trống ngực, run, lo âu, chóng mặt, dị cảm, tiết nhiều nước bọt, tái nhợt, toát mồ hôi.
Loạn nhịp thất, kém ăn, buồn nôn, nôn, sợ hãi, bồn chồn, mất ngủ, dễ kích thích, tiểu khó, bí tiểu, khó thở, phù phổi.
Xuất huyết não, phù phổi (do tăng huyết áp), hoại thư (do co mạch), loạn nhịp tim, đau thắt ngực, tụt huyết áp, chóng mặt hoa mắt, ngất xỉu, ngừng tim, hoại tử mô (do adrenaline thoát ra ngoài mạch máu khi tiêm), lú lẫn, rối loạn tâm thần, xuất huyết não, rối loạn chuyển hóa, nhất là chuyển hóa glucose.
Cấm tuyệt đối tiêm adrenaline chưa được pha loãng vào tĩnh mạch.
Sử dụng thận trọng:
Ở người bệnh quá nhạy cảm với adrenaline, nhất là người bị cường giáp.
Ở người bệnh mắc các bệnh tim mạch (thiếu máu cục bộ cơ tim, loạn nhịp hay nhịp nhanh, bệnh mạch máu có tắc nghẽn (xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, phình động mạch). Đau ngực ở người bệnh đã có cơn đau thắt ngực.
Người bệnh bị đái tháo đường hay bị glôcôm góc hẹp. Người bệnh đang dùng glycosid tim, quinidin, thuốc chống trầm cảm ba vòng.
Vô ý tiêm vào ngón chân, ngón tay, bàn tay, bàn chân có thể gây ra các phản ứng tại chỗ như tím tái, lạnh, mất cảm giác, bầm tím, chảy máu, ban đỏ, tổn thương xương. Nếu xảy ra các dấu hiệu trên, cần đến bác sĩ ngay lập tức.
Tiêm tĩnh mạch nhanh có thể gây tử vong do xuất huyết não hoặc loạn nhịp tim, tuy nhiên trong trường hợp ngừng tim mất mạch, cần tiêm tĩnh mạch nhanh.
Nhỏ mũi quá nhiều adrenaline có thể gây ra phản ứng sung huyết trở lại và tăng chảy nước mũi.
Không được nhỏ dung dịch adrenaline vào mắt người bệnh bị glôcôm góc hẹp hoặc người bệnh có nguy cơ bị glôcôm góc đóng.
Tránh dùng tại chỗ ở những vùng khi giảm tưới máu có thể gây tổn thương mô xung huyết (ví dụ: Dương vật, tai, đầu chi).
Adrenaline đi qua nhau thai và vào vòng tuần hoàn thai nhi với một lượng rất ít. Người ta không cho rằng nó có tác dụng gây dị dạng thai nhi ở người. Dùng adrenaline trong những tháng cuối của thai kỳ hoặc trong khi sinh có thể gây thiếu oxy cho thai nhi.
Chỉ nên dùng adrenaline cho phụ nữ mang thai khi những lợi ích thu được vượt quá những nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi.
Chưa biết thuốc có vào sữa mẹ hay không, nhưng thuốc thường vào sữa mẹ, nên thận trọng không cho con bú.
Không áp dụng trong điều kiện sử dụng bình thường.
Cách xử lý khi quá liều
Do các tác dụng có hại của adrenaline tồn tại rất ngắn, vì adrenaline bị khử hoạt rất nhanh trong cơ thể, nên việc điều trị các phản ứng ngộ độc ơ người bệnh nhạy cảm với thuốc hay do dùng quá liều chủ yếu là điều trị hô trợ.
Tiêm ngay thuốc có tác dụng chẹn alpha (phentolamin), sau đó tiêm thuốc có tác dụng chẹn beta (propranolol) để chống lại tác dụng gây co mạch và loạn nhịp của adrenaline. Có thể dùng thuốc có tác dụng gây giãn mạch nhanh (glyceryl trinitrat).
Vì adrenalin được sử dụng khi cần thiết, không áp dụng khi quên liều.
Tên thuốc: Adrenalin
Dược thư Quốc gia Việt Nam 2015
Drugs.com: https://www.drugs.com/pro/adrenaline-injection.html
Ngày cập nhật: 17/07/2021