Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Cụm từ kháng thể đơn dòng có lẽ nhiều người cũng nghe ở đâu đó, tuy nhiên để hiểu kháng thể đơn dòng là gì chắc không nhiều người biết. Bản chất của kháng thể đơn dòng là các protein do con người tạo ra và nó có nhiều tác dụng trong để điều trị covid-19 và ung thư.
Hiện nay, phương pháp điều trị ung thư đã sử dụng kháng thể đơn dòng như một phương pháp vô cùng hiệu quả. Bởi vì kháng thể đơn dòng giúp kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể có thể tấn công và tiêu diệt những tế bào ung thư. Bên cạnh đó cũng có một số hạn chế của một số loại thuốc kháng thể đơn dòng có thể gây ra những dụng phụ không mong muốn cho người bệnh.
Hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ tạo ra một số lượng lớn các kháng thể để tấn công các chất lạ. Những kháng thể sẽ đi khắp cơ thể cho đến khi tìm thấy và gắn vào kháng nguyên. Khi gắn kết với một kháng nguyên, chúng sẽ kích hoạt những bộ phận khác của hệ miễn dịch để tiêu diệt những tế bào có chứa kháng nguyên. Vì vậy các nhà khoa học đã nghiên cứu tạo ra kháng thể và nhắm vào một kháng nguyên nhất định mà đang cần tiêu diệt, đơn cử như kháng nguyên được tìm thấy ở tế bào ung thư. Trong phòng thí nghiệm sẽ tạo ra nhiều bản sao của kháng thể và được gọi là đơn dòng (mAbs hoặc Moabs).
Kháng thể đơn dòng được nghiên cứu sử dụng điều trị nhiều bệnh đặc biệt là ung thư. Trước khi tạo ra kháng thể đơn dòng, các nhà khoa học phải xác định được loại kháng nguyên cần tấn công. Tuy nhiên, việc tìm đúng loại kháng nguyên ở tế bào ung thư rất khó khăn. Việc sử dụng kháng thể đơn dòng đã được chứng minh có tác dụng tốt hơn trong việc điều trị một số bệnh ung thư.
Phương pháp này được gọi là nhắm trúng đích dùng một số kháng thể đơn dòng được sử dụng để điều trị ung thư. Mục đích để các kháng thể đơn dòng sẽ nhắm vào mục tiêu cụ thể trên tế bào ung thư để tấn công nó. Còn các kháng thể đơn dòng khác hoạt động như một liệu pháp miễn dịch. Như vậy sẽ giúp hệ thống miễn dịch phản ứng tốt hơn, như vậy sẽ giúp cơ thể tìm kiếm, tấn công các tế bào ung thư hiệu quả hơn.
Kháng thể đơn dòng vốn là các protein được tạo ra theo nhiều cách khác nhau như kháng thể đơn dòng Murine:
Kháng thể này được làm từ protein của chuột. Tên của những phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng Murine, có hậu tố là omab. Kháng thể đơn dòng thể khảm (Chimeric) do những protein là sự kết hợp của một phần từ chuột và con người.
Tên của những phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng thể khảm (Chimeric) có hậu tố là ximab. Còn kháng thể đơn dòng từ người được tạo ra bởi protein người và các phần tử nhỏ của chuột. Những phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng từ người có hậu tố là zumab. Còn đối với kháng thể đơn dòng hoàn toàn từ người được tạo ra từ protein của người. Tên của những phương pháp điều trị loại kháng thể đơn dòng này có hậu tố là umab.
Tác dụng tích cực của kháng thể đơn dòng là một liệu pháp đã được sử dụng rộng rãi để điều trị xương khớp, ung thư, huyết học và gần đây là Covid-19. Đây là phương pháp ít tác dụng phụ và mang lại hiệu quả cao. Có thể ngăn chặn nguồn cung cấp máu riêng cho tế bào ung thư, ngăn khối u phát triển do bị cắt đứt đường cung cấp máu nuôi khối u. Hệ thống miễn dịch sẽ tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách luân chuyển thuốc hoặc xạ trị tới tế bào ung thư.
Những kháng thể đơn dòng sẽ ngăn cản tế bào ung thư tăng sinh. Có sự liên kết đặc hiệu với những kháng nguyên của tế bào ung thư để tạo ra phản ứng miễn dịch chống lại tế bào ung thư đích. Vì vậy sẽ ngăn chặn sự tăng sinh của tế bào ung thư. Kháng thể đơn dòng được sản xuất trong ống nghiệm có mục tiêu nhắm cụ thể vào một kháng nguyên nhất định. Nhờ đó có tác dụng như những kháng thể thay thế giúp khôi phục, hoặc bắt chước sự tấn công của hệ thống miễn dịch đối với vật lạ trong cơ thể như tế bào ung thư và kể cả những virus truyền nhiễm.
Có một số loại thuốc kháng thể đơn dòng thường sử dụng điều trị một số dạng ung thư nhất định.
Đối với những kháng thể đơn dòng trần là những kháng thể không gắn chất phóng xạ hoặc thuốc, chúng sẽ tự hoạt động. Phương pháp này được áp dụng nhiều nhất trong việc điều trị ung thư. Đa phần những kháng thể đơn dòng trần sẽ gắn với kháng nguyên trên tế bào ung thư. Tuy nhiên một số mAbs liên kết hoạt động với kháng nguyên trên các tế bào không phải ung thư, thậm chí là các protein trôi nổi tự do.
Những mAbs trần hoạt động theo nhiều cách khác nhau như một số mAbs trần tăng cường phản ứng miễn dịch của cơ thể để chống lại các tế bào ung thư. Hoạt động bằng cách gắn vào chúng như một dấu hiệu giúp cho hệ thống miễn dịch tiêu diệt tế bào ung thư. Còn MAbs trần khác hoạt động và gắn vào đồng thời ngăn chặn các kháng nguyên trên tế bào ung thư hoặc tế bào lân cận khác.
Khi kết hợp kháng thể đơn dòng liên hợp với một loại thuốc hóa trị liệu hay một hợp chất phóng xạ mục đích đưa những chất này trực tiếp đến các tế bào ung thư. Kháng thể đơn dòng lưu thông trên cơ thể khi tìm thấy và bám vào kháng nguyên đích và cung cấp chất độc hại đến nơi cần thiết nhất. Đây là cách giảm bớt những ảnh hưởng xấu của liệu pháp điều trị ung thư cho những tế bào khỏe mạnh trong cơ thể.
Những kháng thể được đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ là những kháng thể được gắn với các hạt phóng xạ nhỏ. Đơn cử như Ibritumomab tiuxetan (Zevalin), là một loại kháng thể chống lại kháng nguyên CD20, được tìm thấy trên các tế bào lympho B. Vì vậy những kháng thể sẽ mang hạt phóng xạ đến các tế bào ung thư.
Những mAb được gắn với những loại thuốc hoá trị liều mạnh như Brentuximab vedotin (Adcetris), kháng thể với mục đích nhắm trúng đích vào kháng nguyên CD30 là một kháng nguyên được tìm thấy trên tế bào lympho, sẽ được gắn vào thuốc hoá trị MMAE. Hoặc TDM-1 là một kháng thể nhắm vào protein HER2 và gắn với thuốc hoá trị DM1.
Kháng thể đơn dòng đặc hiệu kép có nghĩa là được tạo thành từ các phần của 2 mAbs khác nhau. Vì vậy chúng có thể gắn vào 2 protein khác nhau cùng lúc. Như Blinatumomab (Blincyto), kháng thể đơn dòng này để điều trị cho một số loại bệnh bạch cầu do một phần của Blinatumomab, gắn vào protein CD19 thường có trên một số tế bào ung thư máu, ung thư hạch. Và phần còn lại gắn với protein CD3, loại này được tìm thấy ở những tế bào T. Khi sử dụng để liên kết 2 loại protein, thuốc Blinatumomab sẽ mang những tế bào miễn dịch đến tế bào ung thư. Như vậy sẽ giúp cho hệ miễn dịch của cơ thể tiêu diệt được những tế bào gây ung thư.
Bản thân những kháng thể protein, khi chúng vào cơ thể cũng có thể gây ra phản ứng dị ứng. Như vậy thuốc kháng thể đơn dòng được đưa vào tĩnh mạch theo đường tiêm ở bệnh nhân ung thư. Vì vậy trong lần đầu tiên bệnh nhân nhận thuốc kháng thể đơn dòng thì tình trạng này thường xảy ra. Ngoài những phản ứng dị ứng còn xảy ra một số tác dụng phụ như sốt, mệt mỏi, ớn lạnh, đau đầu, nôn mửa, buồn nôn, phát ban, huyết áp thấp.
Những kháng thể đơn dòng trần (mAbs trần) so với một số loại thuốc hóa trị, ít gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng hơn. Một số mAbs có thể có tác dụng phụ liên quan đến kháng nguyên mà chúng nhắm mục tiêu. Kháng thể đơn dòng Bevacizumab (Avastin) nhắm vào VEGF, loại protein ảnh hưởng máu của khối u vì vậy khi sử dụng Bevacizumab có thể có tác dụng phụ như huyết áp cấp, tổn thương thận, chảy máu, vết thương lâu lành.
Kháng thể đơn dòng Cetuximab (Erbitux) nhắm vào EGFR, loại protein này được tìm thấy ở tế bào ung thư và tế bào da bình thường. Tác dụng phụ của thuốc Cetuximab có thể gây ở một số bệnh nhân ung thư tình trạng phát ban nghiêm trọng.
Như vậy thông tin về kháng thể đơn dòng là gì đã được làm sáng tỏ. Loại thuốc kháng thể đơn dòng có thể được sử dụng để điều trị ung thư và nhiều bệnh khác. Các nhà nghiên cứu cần xác định đúng kháng nguyên cần tấn công để tạo ra kháng thể đơn dòng. Tuy nhiên việc tìm đúng kháng nguyên không phải dễ dàng, nhưng đây lại là thuốc được chứng minh có hiệu quả với một số bệnh ung thư. Hy vọng với những thông tin này có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về kháng thể đơn dòng.
Tuệ Nhi
Nguồn tham khảo: Tổng hợp
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.