Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Khánh Vy
06/09/2025
Mặc định
Lớn hơn
Viêm gan siêu vi là một trong những bệnh lý truyền nhiễm quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Đây là tình trạng viêm gan do virus gây nên, có thể tiến triển từ cấp tính đến mạn tính, dẫn đến những biến chứng nặng nề như suy gan, xơ gan hoặc ung thư gan.
Các loại virus thường gặp gây viêm gan là virus viêm gan A (HAV), B (HBV), C (HCV), D (HDV), E (HEV) và đôi khi cả virus G (HGV). Bên cạnh đó, gan cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều loại siêu vi khác như Adenovirus, Cytomegalovirus, Epstein-Barr virus, Herpes simplex virus và virus Dengue. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về bản chất của viêm gan siêu vi.
Gan là cơ quan quan trọng trong cơ thể, đảm nhiệm nhiều chức năng sống còn như chuyển hóa, giải độc, dự trữ năng lượng và sản xuất protein cần thiết. Khi bị virus tấn công, tế bào gan bị hủy hoại, gây ra phản ứng viêm. Quá trình viêm này kéo dài sẽ làm suy giảm chức năng gan và mở đường cho nhiều biến chứng nguy hiểm.
Viêm gan siêu vi có thể diễn tiến theo hai dạng:
Bệnh viêm gan siêu vi không phải lúc nào cũng biểu hiện rõ rệt, đặc biệt ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, diễn biến bệnh thường trải qua bốn giai đoạn đặc trưng:
Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào từng loại virus.
Trong giai đoạn này, người bệnh chưa có triệu chứng nhưng virus đã bắt đầu nhân lên trong gan.
Biểu hiện thường mơ hồ, dễ nhầm lẫn với cảm cúm hoặc rối loạn tiêu hóa. Người bệnh có thể gặp:
Lúc này các triệu chứng điển hình của viêm gan xuất hiện rõ rệt:
Xét nghiệm thường cho thấy men gan (AST, ALT) tăng cao, bilirubin tăng, thời gian đông máu kéo dài.
Bệnh nhân bắt đầu cải thiện: Tiểu nhiều, vàng da giảm dần, sức khỏe hồi phục. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể tiến triển sang viêm gan mạn tính hoặc biến chứng nặng.
Tùy thuộc vào từng loại virus, đường lây truyền của viêm gan siêu vi sẽ khác nhau:
Một số nhóm có nguy cơ cao mắc viêm gan siêu vi:
Để chẩn đoán chính xác, bác sĩ thường kết hợp khai thác triệu chứng lâm sàng và thực hiện các xét nghiệm chuyên biệt.
Khi tế bào gan bị tổn thương, men gan (AST, ALT) thoát ra máu, làm nồng độ tăng cao. Đây là chỉ số nhạy để đánh giá mức độ viêm gan.
Các xét nghiệm này giúp xác định loại virus gây bệnh. Ví dụ:
Tìm DNA hoặc RNA của virus trong máu, giúp xác định hoạt động nhân lên của virus.
Ngoài ra, siêu âm ổ bụng cũng được chỉ định nhằm đánh giá gan và loại trừ các bệnh khác có triệu chứng tương tự.
Chủ yếu điều trị hỗ trợ và chăm sóc:
Hầu hết các trường hợp viêm gan cấp có thể hồi phục hoàn toàn nếu được chăm sóc đúng cách.
Cần điều trị lâu dài bằng thuốc kháng virus:
Phòng bệnh luôn quan trọng hơn điều trị, đặc biệt với các loại viêm gan mạn tính. Các biện pháp bao gồm:
Tiêm vắc xin:
Trung tâm Tiêm chủng Long Châu là địa chỉ uy tín, cung cấp đa dạng các loại vắc xin phòng bệnh, trong đó có vắc xin viêm gan A và viêm gan B. Với đội ngũ nhân viên y tế giàu kinh nghiệm, quy trình tiêm chủng an toàn và hệ thống theo dõi sau tiêm khoa học, Trung tâm mang đến sự an tâm cho người dân trong việc chủ động phòng ngừa viêm gan siêu vi cũng như nhiều bệnh truyền nhiễm khác.
Phụ nữ mang thai có tải lượng virus HBV cao được điều trị thuốc kháng virus từ 3 tháng cuối thai kỳ. Trẻ sơ sinh sẽ được tiêm vắc xin và huyết thanh kháng HBV trong vòng 12 giờ sau sinh.
Tham khảo những biện pháp phòng ngừa viêm gan siêu vi sau:
Viêm gan siêu vi là một bệnh lý phổ biến và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Việc nhận biết sớm các triệu chứng, hiểu rõ đường lây truyền, thực hiện chẩn đoán chính xác và áp dụng các biện pháp phòng ngừa là chìa khóa để kiểm soát căn bệnh này.
Tiêm phòng đầy đủ, duy trì lối sống lành mạnh, giữ vệ sinh an toàn thực phẩm và quan hệ tình dục an toàn chính là những bước quan trọng giúp mỗi người bảo vệ lá gan của mình.
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.