Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Xét nghiệm Rivalta đã được sử dụng từ những năm 1900 do một nhà nghiên cứu người Ý, đây là xét nghiệm đơn giản, dễ làm để phân biệt 2 loại dịch chọc dò trong cơ thể. Vậy, ý nghĩa của xét nghiệm Rivalta trên lâm sàng là gì? Hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Rất nhiều bệnh lý của cơ thể có thể gây tích tụ dịch trong các khoang của cơ thể, ở các cơ quan khác nhau. Để hiểu rõ về bản chất của dịch đó, có thể sử dụng các cách khác nhau. Tuy nhiên, xét nghiệm Rivalta là xét nghiệm đơn giản, rẻ tiền có thể làm tại nhiều cơ sở y tế. Vậy, xét nghiệm Rivalta là gì? Hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu thêm về ý nghĩa của xét nghiệm Rivalta trên lâm sàng qua bài viết dưới đây.
Dịch chọc dò làm xét nghiệm là các dịch đường lấy từ các khoang của cơ thể như khoang màng phổi, khoang phúc mạc, khoang màng tim hay dịch ở các khớp lớn như khớp gối, khớp vai. Dịch chọc dò được phân thành 2 loại là dịch thấm và dịch tiết.
Dịch thấm là dịch ngoại mạch có hàm lượng protein thấp và có trọng lượng riêng thấp (< 1.012). Dịch thấm có số lượng tế bào có nhân thấp (dưới 500 đến 1000/microlit) và các loại tế bào chính là tế bào đơn nhân: Đại thực bào, tế bào lympho và trung biểu mô. Ví dụ: Dịch siêu lọc của huyết tương là dịch thấm, đó là kết quả của việc tăng áp lực thủy tĩnh trong lòng mạch hoặc giảm áp lực keo của huyết tương.
Dịch tiết là dịch được các mô tiết ra từ hệ thống tuần hoàn vào các vùng tổn thương hoặc vùng đang viêm. Dịch tiết có thể là chất lỏng giống như mủ hoặc trong suốt. Dịch tiết bao gồm huyết thanh, fibrin và bạch cầu. Dịch tiết có thể rỉ ra từ vết cắt hoặc từ vùng nhiễm trùng hoặc viêm.
Sự khác biệt quan trọng giữa dịch thấm và dịch tiết là nguyên nhân sinh ra dịch đó. Dịch thấm được gây ra bởi sự rối loạn áp suất thủy tĩnh hoặc áp suất keo của máu, tình trạng này xảy ra không phải do viêm hay nhiễm trùng. Do đó, dịch thấm có hàm lượng protein thấp hơn so với dịch tiết và trông trong hơn.
Việc phân biệt giữa dịch thấm và dịch tiết không phải chỉ dựa vào màu sắc do dịch tiết cũng có là dịch trong. Để phân biệt được hai dịch này, ta dựa vào việc đo trọng lượng riêng của dịch chọc dò, trọng lượng riêng lại phản ánh một phần hàm lượng protein của chất lỏng. Ngoài ra, xét nghiệm Rivalta có thể được sử dụng để phân biệt dịch thấm và dịch tiết.
Một số bệnh lý có thể gây ra sự tích tụ rất nhiều chất lỏng trong các khoang của cơ thể như khoang bụng (dịch cổ trướng) hoặc khoang màng phổi (tràn dịch màng phổi) hoặc khoang màng ngoài tim. Việc ước tính nồng độ protein trong các dịch này có thể thu hẹp chẩn đoán phân biệt và hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng trong chẩn đoán.
Ví dụ, sự tích tụ chất lỏng do suy tim sung huyết và xơ gan (xơ gan cổ trướng) thường có hàm lượng protein thấp hơn và được gọi là dịch thấm. Trong khi đó, dịch tích tụ do ung thư hoặc do lao thường có hàm lượng protein cao hơn và được gọi là dịch tiết.
Xét nghiệm Rivalta là một phương pháp đơn giản, giá thành hợp lý, có thể được sử dụng ở những cơ sở y tế có nguồn lực hạn chế để phân biệt dịch thấm và dịch tiết. Đây là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, không cần thiết bị phòng thí nghiệm đặc biệt và có thể dễ dàng thực hiện. Xét nghiệm Rivalta ban đầu được phát triển bởi nhà nghiên cứu người Ý – Rivalta vào khoảng năm 1900 và được sử dụng để phân biệt dịch thấm và dịch tiết ở bệnh nhân. Xét nghiệm này cũng hữu ích ở mèo để phân biệt giữa tràn dịch do viêm phúc mạc nhiễm trùng ở mèo (FIP) và tràn dịch do các bệnh khác vì không chỉ hàm lượng protein cao mà nồng độ fibrinogen và các chất trung gian gây viêm cao cũng dẫn đến xét nghiệm có phản ứng dương tính.
Một ống nghiệm chứa nước cất và acid acetic được thêm vào sau đó. Một giọt dịch chọc dò cần được kiểm tra được nhỏ vào ống nghiệm. Nếu giọt dịch tan đi, kết quả xét nghiệm là âm tính, điều này cho thấy dịch vừa cho vào là dịch thấm. Nếu giọt nước kết tủa lại thì kết quả xét nghiệm là dương tính, cho thấy đó là dịch tiết.
Việc sử dụng dung dịch acid acetic có độ pH 4.0 đã gây kết tủa 8 loại protein, gây kết quả dương tính với phản ứng Rivalta, bao gồm: Protein C phản ứng (CRP), Alpha 1 – antitrypsin (Alpha 1 – AT), Orosomucoid (Alpha – 1 – acid glycoprotein hoặc AGP), Haptoglobulin (Hp), Transferrin (Tf), Ceruloplasmin (Cp), Fibrinogen (Fg) và Hemopexin (Hpx). Vì đây là những protein được xuất tiết trong giai đoạn viêm cấp tính nên xét nghiệm Rivalta dương tính có thể gợi ý một tình trạng viêm.
Nồng độ protein thấp hơn sẽ hòa tan trong dung dịch acid acetic được sử dụng trong xét nghiệm Rivalta, trong khi nồng độ cao như ở dịch tiết thì không. Điều này cho phép phân biệt giữa dịch thấm và dịch tiết dựa trên việc ước tính nồng độ protein trong dịch làm xét nghiệm.
Xét nghiệm Rivalta là xét nghiệm có quy trình vô cùng đơn giản, gồm có 4 bước:
Kết quả âm tính nếu giọt dịch hòa tan vào thuốc thử và vẫn trong suốt. Nếu giọt nước vẫn giữ nguyên hình dạng, từ từ chìm xuống đáy hoặc bám trên bề mặt ống nghiệm thì kết quả xét nghiệm là dương tính.
Ở người, một số bệnh có thể gây tích tụ dịch ở các cơ quan và khoang khác nhau trên cơ thể, đó là hiện tượng tràn dịch. Dịch tích tụ đó có thể là dịch thấm hoặc dịch tiết. Xét nghiệm Rivalta là xét nghiệm rẻ tiền giúp phân biệt dịch thấm và dịch tiết.
Nhiều nguyên nhân có thể gây tràn dịch thấm, bao gồm:
Rất nhiều nguyên nhân gây tràn dịch tiết, bao gồm:
Bài viết trên của Nhà thuốc Long Châu đã cung cấp rất nhiều thông tin cho các độc giả liên quan đến xét nghiệm Rivalta và ý nghĩa của xét nghiệm Rivalta trên lâm sàng. Từ đó, giúp mọi người hiểu rõ hơn về xét nghiệm này.
Xem thêm: Tìm hiểu về kỹ thuật chọc dịch màng phổi
Dược sĩ Đại họcNguyễn Thị Hồng Nhung
Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.