Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, có nhiều năm kinh nghiệm trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt về Nội khoa, Hồi sức và Tiêm chủng vắc xin. Hiện tại, đang là bác sĩ tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩLê Thị Quyên
Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, có nhiều năm kinh nghiệm trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt về Nội khoa, Hồi sức và Tiêm chủng vắc xin. Hiện tại, đang là bác sĩ tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Bệnh màng đáy mỏng (Thin Basement Membrane Disease) hay còn gọi là bệnh thận màng đáy mỏng, được coi là một rối loạn tương đối phổ biến. Đây là một rối loạn mang tính chất di truyền ảnh hưởng đến màng đáy cầu thận, đặc trưng bởi tiểu máu vi thể, thường có chức năng thận bình thường và không có protein niệu. Bệnh được phát hiện một cách tình cờ và hầu hết là không cần điều trị. Hãy cùng đọc bài viết để hiểu rõ hơn về bệnh lý này
Cầu thận có ba lớp màng lọc là lớp nội mô, lớp màng đáy (GBM) và tế bào có chân. Các lớp màng lọc giúp cho protein và các tế bào máu được giữ lại và không đi vào nước tiểu.
Bệnh màng đáy mỏng là bệnh do đột biến gen mã hóa cho collagen IV. Đây là thành phần chính cấu tạo nên màng đáy, khi bị ảnh hưởng nó làm cho màng đáy mỏng đi và dễ tổn thương. Và kết quả sau cùng là một số hồng cầu sẽ đi qua được màng lọc và đi vào trong nước tiểu và gây ra tiểu máu vi thể (vi thể nghĩa là với một lượng hồng cầu ít trong nước tiểu, không nhìn thấy được bằng mắt thường mà chỉ có thể phát hiện bằng xét nghiệm).
Chẩn đoán bệnh thường dựa trên biểu hiện lâm sàng và tiền sử gia đình, với sinh thiết thận cho thấy GBM mỏng lan tỏa. Tuy nhiên, tiền sử gia đình mắc bệnh thận tiến triển thường không có, và trong những trường hợp như vậy, sinh thiết thận có thể không cần thiết để chẩn đoán xác định. Việc điều trị thường là bảo tồn, vì hầu hết bệnh nhân không cần điều trị cụ thể do bản chất lành tính của bệnh.
Bệnh màng đáy mỏng trước đây còn được gọi là tiểu máu lành tính mang tính chất gia đình nhưng thuật ngữ này hiện không còn được ưa chuộng do những hiểu biết sâu hơn về nguyên nhân di truyền và các biến thể trong biểu hiện lâm sàng của tình trạng này.
Cần phân biết bệnh màng đáy mỏng với hội chứng Alport vì đây cũng là đột biến gen mã hóa collagen loại IV. Nhưng Alport gây ra tổn thương thận nặng và sau cùng là dẫn đến suy thận. Ngoài ra, nó cũng đi kèm tổn thương đến các cơ quan khác ngoài thận.
Hầu hết các trường hợp TBMN ban đầu biểu hiện bằng tình trạng tiểu máu vi thể đơn độc , không triệu chứng, thường được phát hiện tình cờ khi làm xét nghiệm nước tiểu. Tiền sử bệnh và khám sức khỏe của những bệnh nhân này thường không có gì đáng chú ý, và tiền sử gia đình có thể có tiểu máu hoặc không.
Các triệu chứng của bệnh màng đáy mỏng có thể bao gồm:
Trong bệnh màng đáy mỏng, tiểu đạm (protein trong nước tiểu) là không phổ biến và khả năng xảy ra cao khi tuổi tác tăng lên ở <10% người bệnh màng đáy mỏng. Khi đó lượng đạm (protein) niệu sẽ thấp hơn lượng protein so với bệnh lý thận hư (<3g/24 giờ)
Tiền sử bệnh và khám tập trung vào việc xác định bất kỳ nguyên nhân nào gây ra tình trạng tiểu máu vi thể. Tiền sử bệnh phải tập trung vào việc loại trừ các nguyên nhân phổ biến khác, chẳng hạn như các tình trạng tiết niệu, sỏi thận và bệnh thận IgA. Việc xem xét toàn diện các bệnh hệ thống là điều cần thiết để loại trừ các biểu hiện toàn thân của các bệnh tự miễn, chẳng hạn như bệnh lupus ban đỏ hệ thống, cũng có thể gây tiểu máu vi thể.
Tiên lượng lâu dài của hầu hết người bệnh mắc bệnh màng đáy mỏng là rất tốt. Tình trạng này thường không dẫn đến sự tiến triển của suy thận hay bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Tuy nhiên, những biến chứng rất hiếm gặp có thể bao gồm:
Ngoài ra, biến chứng còn đến từ việc muốn chẩn đoán xác định từ việc sinh thiết thận.
Thông thường bệnh thận màng đáy mỏng vô tình phát hiện do máu vi thể trong xét nghiệm nước tiểu mà không có triệu chứng gì bất thường. Khi được ghi nhận thì bạn nên đến bác sĩ chuyên khoa thận-tiết niệu để đánh giá cụ thể và chẩn đoán tình trạng của mình.
Đột biến ở COL4A3 và COL4A4 gây ra bệnh thận màng đáy mỏng. Những gen này nằm trên nhiễm sắc thể số 2, ở 2q35-37 và mã hóa cho 2 chuỗi collagen loại IV khác nhau. Các đột biến này là dị hợp tử hoặc các đột biến alen và có thể có nhiều biến thể.
Một nửa đến hai phần ba số người bệnh mắc bệnh màng đáy mỏng có tiền sử gia đình được xác định, có di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường.
Những người bệnh không có tiền sử gia đình được xác định có thể có đột biến de novo (đột biến mới, tự phát).
Bệnh màng đáy mỏng có đặc điểm lâm sàng là tiểu máu tái phát, chức năng thận bình thường và tiền sử gia đình dương tính.
Điều trị bệnh màng đáy mỏng tùy thuộc vào tình trạng:
Bệnh màng đáy mỏng không phải là viêm thận mãn tính mà là viêm thận tiềm ẩn.
Đại đa số bệnh nhân bệnh màng đáy mỏng có tiên lượng tốt, không ảnh hưởng đến thời gian sống, chức năng thận có thể duy trì ở mức bình thường trong thời gian dài.
Người bệnh màng đáy mỏng cần chú ý tránh nhiễm trùng đường hô hấp trên, làm việc quá sức,… Ngoài ra, cần kiểm soát huyết áp cao, tránh dùng các thuốc gây độc thận, có lợi cho quá trình hồi phục bệnh.
Hỏi đáp (0 bình luận)