Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩPĂNG TING K'LiNa
Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Viêm mống mắt thể mi hay còn được gọi là viêm màng bồ đào trước cấp tính. Đây là một bệnh mắt khá phổ biến, căn nguyên phức tạp, tổn thương lâm sàng thường nặng nề, nhiều biến chứng, hay tái phát nếu không được điều trị kịp thời thì có thể gây biến chứng nặng và dẫn đến mù lòa.
Màng bồ đào cấu tạo bởi ba thành phần, gồm: Mống mắt, thể mi và hắc mạc. Viêm màng bồ đào được phân loại theo vị trí giải phẫu:
Viêm màng bồ đào trước: Viêm mống mắt – thể mi.
Viêm màng bồ đào trung gian: Viêm vùng parsplana.
Viêm màng bồ đào sau: Viêm hắc mạc.
Viêm màng bồ đào toàn bộ: Viêm đồng thời cả mống mắt thể mi và hắc mạc.
Bệnh viêm mống mắt thể mi do đáp ứng viêm của màng bồ đào với các quá trình nhiễm khuẩn, chấn thương hoặc là phản ứng viêm theo cơ chế miễn dịch, tự miễn với kháng nguyên xâm nhập hoặc kháng nguyên của chính màng bồ đào. Các bạch cầu đa nhân, bạch cầu ái toan, tương bào đều có thể góp phần vào quá trình viêm màng bồ đào nhưng tế bào lympho là tế bào viêm chiếm ưu thế ở nội nhãn trong viêm màng bồ đào. Nhưng chất trung gian hóa học của giai đoạn viêm nhiễm cấp tính gồm serotonin, bổ thể và plasmin. Các leukotrien, kinin, prostaglandin làm biến đổi pha thứ hai của đáp ứng viêm cấp, bổ thể hoạt hóa là tác nhân thu hút bạch cầu…
Nhìn mờ là triệu chứng xuất hiện ngay từ đầu, có khi có cảm giác nhìn qua màn sương, có khi nhìn mờ nhiều, ảnh hưởng đến sinh hoạt của bệnh nhân.
Đau nhức mắt âm ỉ, đôi khi đau nhiều thành cơn kèm theo nôn hoặc buồn nôn.
Sợ ánh sáng, chảy nước mắt, đỏ mắt.
Đôi khi bệnh nhân không hề có các triệu chứng trên mà bệnh viêm mống mắt thể mi được phát hiện tình cờ khi khám mắt.
Cương tụ rìa: Cương tụ xung quanh vùng rìa giác mạc, càng xa vùng rìa cương tụ càng giảm dần.
Tủa giác mạc là những lắng đọng viêm ở nội mô giác mạc, có thể rải rác khắp mặt sau giác mạc hoặc đọng ở trung tâm, nhưng điển hình là lắng đọng hình quạt hay tam giác đỉnh quay lên trên (tam giác Arlt).
Dấu hiệu Tyndal là những thể lơ lửng trong thủy dịch do tế bào hoặc xuất tiết viêm.
Xuất tiết.
Những thay đổi ở đồng tử: Đồng tử co nhẹ, phản ứng chậm. Đồng tử có thể dính vào mặt trước thể thủy tinh, nếu dùng thuốc giãn đồng tử có thể làm tách dính hoàn toàn hoặc không hoàn toàn.
Tổn thương ở mống mắt: Mống mắt phù viêm, khi dính hết bờ đồng tử vào mặt trước thể thủy tinh, thủy dịch ứ đọng ở hậu phòng đẩy phồng mống mắt. Xuất hiện các nốt viêm ở mống mắt: Nốt Koeppe hoặc nốt Busacca.
Dấu hiệu phản ứng thể mi.
Thể thủy tinh: Thường gặp tủa sắc tố mặt trước thể thủy tinh hoặc có thể gặp đục thể thủy tinh do bệnh viêm mống mắt – thể mi.
Nhãn áp thường thấp thoáng qua trong giai đoạn đầu, có trường hợp nhãn áp thấp vĩnh viễn do thể mi bị hủy hoại gây teo nhãn cầu; có trường hợp nhãn áp tăng do dính mống mắt hoặc viêm xuất tiết bịt góc tiền phòng cản trở lưu thông thủy dịch.
Tăng nhãn áp là biến chứng khá phổ biến của viêm mống mắt thể mi, tăng nhãn áp trong đợt viêm cấp là do nghẽn đồng tử, nghẽn góc tiền phòng do xuất tiết. Ngoài ra cũng phải kể đến tăng nhãn áp do dùng kéo dài thuốc corticosteroid trong điều trị bệnh viêm màng bồ đào.
Đục thể thủy tinh thường gặp trong viêm mống mắt thể mi mạn tính hoặc tái phát, là biến chứng của chính quá trình viêm hoặc do điều trị corticosteroid kéo dài.
Teo nhãn cầu trong viêm mống mắt thể mi nặng, thể mi giảm tiết thủy dịch vĩnh viễn đến teo nhãn cầu.
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Có rất nhiều nguyên nhân gây viêm mống mắt thể mi, các nguyên nhân này được xếp thành các nhóm chính sau đây:
Nhiễm trùng: Vi khuẩn (Tụ cầu, liên cầu, phế cầu...); virus (Herpes, Zona, cúm...); nấm (Candida, Aspergillus...); ký sinh trùng (Toxoplasma, giun, ấu trùng sán...).
Miễn dịch: Yếu tố kháng nguyên HLA. Hội chứng Behçet. Hội chứng Vogt-Koyanagi-Harada...
Dị ứng.
Nhiễm độc: Hóa chất, độc tố tác nhân nhiễm khuẩn, u ác trong nhãn cầu...
Quyết định số 40/QĐ-BYT ngày 12/01/2015 của Bộ Y tế về việc Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh về mắt.
Nhãn khoa – Hoàng Thị Phúc.
Các triệu chứng khi bị viêm mống mắt thể mi bao gồm đau, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và suy giảm thị lực,...
Bản thân viêm mống mắt thể mi không phải là một bệnh truyền nhiễm và do đó không lây nhiễm.
Viêm mống mắt thể mi có thể do nhiều yếu tố gây ra, có thể được chia thành các yếu tố nhiễm trùng (vi khuẩn, vi rút) và không nhiễm trùng (tự miễn, chấn thương, tổn thương vật lý và hóa học).
Phản ứng viêm kích thích sự giãn nở của mạch máu và tăng tính thấm của mạch máu, dẫn đến sự hiện diện của các chất huyết tương trong thủy dịch. Sự gia tăng nồng độ của thủy dịch sẽ làm chậm đáng kể tốc độ phóng điện, đồng thời sự bám dính sẽ xảy ra ở góc của buồng, khiến tình trạng trở nên trầm trọng hơn, dẫn đến bệnh tăng nhãn áp thứ phát.
Viêm mống mắt thường gặp ở những bệnh nhân mắc các bệnh toàn thân (như hội chứng Sjögren, bệnh đa xơ cứng, các bệnh về hệ thống miễn dịch khác) và những người bị chấn thương mắt.
Hỏi đáp (0 bình luận)