Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu

Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm

Long Châu

Giải phẫu khớp thái dương hàm

Ngày 30/04/2024
Kích thước chữ
  • Mặc định

  • Lớn hơn

Khớp thái dương hàm thường liên quan đến nhiều hoạt động hàng ngày như nói, nhai, cắn, nuốt và há miệng. Do đó, tìm hiểu về giải phẫu khớp thái dương hàm là rất cần thiết để có thể duy trì sức khỏe một cách hiệu quả.

Khớp thái dương hàm, còn được biết đến với tên gọi khác là khớp hàm, là một trong những khớp quan trọng nhất trong cơ thể con người. Việc hiểu biết về cấu trúc và chức năng của khớp thái dương hàm có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe răng miệng và hàm mặt. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về giải phẫu khớp thái dương hàm, bao gồm cấu trúc và chức năng.

Giải phẫu khớp thái dương hàm

Lồi cầu xương hàm dưới

Lồi cầu và mỏm quạ là hai điểm cao nhất của cấu trúc xương hàm dưới, với lồi cầu ở phía sau và mỏm quạ ở phía trước. Giữa chúng là khuyết Sigma. Lồi cầu có hình dạng thuôn, có chiều ngang cả bên ngoài lẫn bên trong từ 15mm đến 20mm và chiều dài từ trước ra sau là khoảng 8mm đến 10mm. Cả đầu bên ngoài và đầu bên trong của lồi cầu đều được tận hết bởi hai cực: Cực bên ngoài và cực bên trong. 

Đường nối hai cực này kéo dài về phía trong và phía sau, gặp nhau ở vùng bờ trước của lỗ chẩm, tạo thành một góc khoảng 145 đến 160 độ. Đường này song song với đường nối các múi bên ngoài và bên trong tương ứng của các răng sau. Cực bên ngoài thường ngắn và gần cổ của lồi cầu hơn, có bề mặt tù và gồ ghề ở nơi tiếp xúc với đĩa khớp và dây chằng thái dương hàm. Cực bên trong thường dài hơn và ở xa cổ của lồi cầu, cũng có bề mặt gồ ghề tương tự.

Giải phẫu khớp thái dương hàm 1
Lồi cầu xương hàm dưới

Bề mặt tiếp xúc của lồi cầu có thể hơi lồi theo hướng trước sau và thẳng hoặc hơi lồi theo hướng ngoài trong. Đôi khi, bề mặt tiếp xúc của lồi cầu có thể bị chia thành hai phần bởi một gờ hoặc một rãnh, với phần bên ngoài thường ngắn hơn phần bên trong. Bề mặt tiếp xúc chủ yếu của lồi cầu nằm ở phía trước và phía trên. Bờ trước của bề mặt tiếp xúc thường có một gờ xương, trong khi bờ sau của bề mặt tiếp xúc ở lồi cầu thường là điểm cao nhất của xương hàm dưới, với một gờ (gờ trên lồi cầu) thường xuất hiện ở đó. Mặt sau của lồi cầu, mặc dù thuộc về khớp, nhưng không phải là phần tiếp xúc chính.

Bề mặt tiếp xúc của cả lồi cầu và xương thái dương được bao phủ bởi một loại mô sợi săn chắc không có mạch máu, chứa ít tế bào sụn và proteoglycan dạng sụn (CPGs) cùng các sợi chun và sợi kháng axit (sợi oxytalan). Đây là loại khớp động duy nhất trong cơ thể mà các bề mặt tiếp xúc không được bảo vệ bởi lớp sụn. Vì vậy, khớp thái dương hàm không chỉ đóng vai trò là một cấu trúc nâng đỡ trọng lượng tĩnh mà còn là một khớp đa nhiệm, có khả năng thích ứng với các biến động về lực như trong quá trình nhai.

Diện khớp ở sọ

Vùng diện khớp của xương hàm nằm ở dưới phần xương thái dương, ngay trước bờ trước của xương ống tai và sau mỏm gò má của xương thái dương. Diện khớp bao gồm một phần lồi ở phía trước gọi là lồi khớp (Condyle) và một phần lõm ở phía sau gọi là hõm khớp (Glenoid fossa), được giới hạn bởi vùng bám của bao khớp.

Giải phẫu khớp thái dương hàm 2
Giải phẩu khớp thái dương hàm

Lồi khớp có dạng cuộn xương, nghiêng về phía trong và hướng ra sau nhưng có một chút lõm theo hướng ngoài trong. Từ mặt đối diện của lồi khớp, phần sườn sau có kết cấu linh hoạt hơn so với phần sườn trước. Phần sườn sau của lồi khớp chính là vùng hoạt động chính của diện khớp trong cấu trúc xương hàm. Vì có sự hiện diện của lồi khớp trên xương thái dương, khớp thái dương hàm cũng có thể được mô tả như một loại khớp lưỡng lồi cầu.

Hõm khớp được hình thành như một vòm, có dạng lõm cả theo chiều từ trước ra sau và từ ngoài vào trong. Hõm này có trục dài theo hướng từ ngoài vào trong và trùng với trục dài của lồi cầu. Phần trên của hõm khớp mỏng và tiếp xúc với phần dưới của sọ, với vùng mỏng nhất có độ dày khoảng 2mm. Phần sau của hõm khớp được phân biệt bằng một khe gọi là khe nhĩ trái và không thuộc về phần khớp.

Các bề mặt tiếp xúc của diện khớp trong khớp thái dương hàm không nằm sát nhau. Do đó, việc so sánh cơ chế đòn bẩy trong hoạt động của khớp không hoàn toàn chính xác. Các bề mặt tiếp xúc không tiếp xúc trực tiếp ngay cả khi hàm dưới cắn lại. Khoảng cách giữa hai bề mặt tiếp xúc ở phía trong lớn hơn so với phía ngoài và phía sau lớn hơn phía trước. Khoảng cách này được lấp đầy bởi đĩa khớp và các mô liên kết xung quanh.

Cả lồi khớp và hõm khớp thái dương hàm đều nằm trong phạm vi đầu sau của cung tiếp của phần trai xương thái dương. Lồi khớp là một phần của rễ ngang, trong khi hõm khớp là một phần lõm giữa rễ ngang và rễ thẳng.

Đĩa khớp

Chức năng chính của đĩa khớp là có khả năng thay đổi vị trí và hình dạng của nó để có thể điều chỉnh và lấp đầy khoảng cách giữa các bề mặt tiếp xúc của diện khớp bằng xương, đồng thời giữ cho xương hàm dưới ổn định trong mọi giai đoạn của vận động.

Nhìn từ trên xuống, đĩa khớp thường có hình dạng oval hoặc hình chữ nhật, với các vạt tam giác ở phía trong và ngoài, được gấp xuống và chạm vào các cực ngoài và cực trong của lồi cầu.

Nhìn chung, đĩa khớp có hình dạng giống như một thấu kính lõm hai mặt. Nửa phía sau của đĩa thường dày hơn nửa phía trước và phần bên trong dày hơn phần bên ngoài với phần giữa của đĩa thường mỏng, phù hợp với khoảng cách giữa hai bề mặt tiếp xúc của diện khớp. Các phần dày hơn của đĩa ở phía trước và phía sau được gọi là dải trước và dải sau, trong khi phần mỏng nhất của đĩa là vùng trung gian.

Bề mặt trên của đĩa thường hơi lồi ở phần sau và hơi lõm ở phần trước, phù hợp với hình dạng của bề mặt tiếp xúc của diện khớp trên xương hàm. Trái lại, bề mặt dưới của đĩa thường lõm hình chữ U. Phần dày nhất của đĩa khớp là phần sau, tương ứng với hõm khớp.

Được làm từ một loại mô sợi keo chắc chắn thay vì mô sụn, các bề mặt của đĩa khớp được phủ bởi một lớp mô hoạt dịch.

Giải phẫu khớp thái dương hàm 3
Đĩa khớp của khớp thái dương hàm

Cấu trúc của đĩa khớp bao gồm các sợi collagen được sắp xếp theo hướng mật độ cao, proteoglycan dạng sụn (CPGS) và sợi chun. Các sợi collagen ở vùng trung gian thường có hướng vuông góc ít nhiều so với trục ngang của đĩa. Trên đường đi của chúng, có những nhánh kết nối theo hướng từ ngoài vào trong và từ trên xuống dưới. Khi tiếp cận vùng dải trước và dải sau, các sợi này phân nhánh ra theo cả hai hướng từ trên xuống dưới và từ ngoài vào trong để liên kết hoặc tiếp tục với các sợi ở vùng này. Các sợi theo hướng từ ngoài vào trong thường chiếm ưu thế ở dải sau của đĩa. Mô của đĩa khớp không có khả năng tái tạo và đổi mới, do đó, các tổn thương ở đĩa khớp thường là vĩnh viễn và không thể phục hồi.

Toàn bộ chu vi của đĩa tiếp xúc liên tục với mô liên kết xung quanh, chia khoảng khớp thành hai buồng. Bề mặt của đĩa được phủ bởi một lớp dịch mô hoạt dịch, làm giảm ma sát giữa đĩa và các bề mặt tiếp xúc. Tính đàn hồi của đĩa đến từ cấu trúc mô sợi và hình dạng của nó. Trong khe khớp, đĩa có thể thay đổi hình dạng một chút, vùng mỏng của đĩa có thể di chuyển theo hướng từ ngoài vào trong hoặc đĩa có thể xoay trong các chuyển động không đối xứng của hàm dưới, làm cho nó lấp đầy khe khớp.

Bao khớp

Bao khớp bao gồm các mô tạo nên thành của khoang khớp. Bao khớp có hình dạng như một cái phễu, rộng ở phần gần nền sọ và thu hẹp lại ở phần lồi cầu, tạo thành một hình dáng tương tự như cổ tay áo.

Nguyên ủy của bao khớp là đường chu vi của diện khớp trên xương sọ, bao gồm các phần sau đây:

  • Phía trước: Bờ trước của lồi khớp;
  • Phía sau: Đáy của hõm khớp;
  • Phía ngoài: Bờ ngoài của hõm khớp;
  • Phía trong: Đường khớp bướm - trai.

Bao khớp được gắn chặt vào gờ ngay dưới bề mặt tiếp xúc của lồi cầu. Các sợi của bao khớp nối với các sợi của bề mặt trước và sau của đĩa khớp trên toàn bộ chu vi của nó, tạo thành hai buồng khớp: Buồng khớp trên và buồng khớp dưới. Cả hai buồng này đều chứa dịch mô hoạt dịch.

Bao khớp được củng cố ở phía ngoài và phía trong bằng các sợi. Các sợi ở phía ngoài có độ dày và mạnh hơn, thường mang tính chất của một dây chằng, được gọi là dây chằng khớp thái dương hàm.

Giải phẫu khớp thái dương hàm 4
Bao khớp và dây chằng bao khớp

Dây chằng có hình dạng giống như một hình quạt, rộng ở phần gần cung gò má và thu hẹp lại ở nơi nó gắn vào cổ của lồi cầu. Các sợi của dây chằng di chuyển theo hướng từ trên xuống dưới và từ phía trước ra sau, từ vùng lồi khớp đến phía sau của cổ lồi cầu.

Dây chằng cũng giữ vai trò quan trọng trong việc điều phối thần kinh của các vận động, tư thế nghỉ và vị trí của hàm dưới.

Các vận động của khớp thái dương hàm

Khớp thái dương hàm có nhiều loại vận động khác nhau, bao gồm:

  • Nâng và hạ hàm: Hạ hàm bao gồm hai phần chính. Phần đầu tiên là sự xoay ra phía trước của lồi cầu trên đĩa. Tiếp theo, phần thứ hai liên quan đến sự trượt của đĩa và lồi cầu về phía trước và xuống dưới. Nâng hàm, hay còn gọi là đóng hàm, diễn ra ngược lại, bao gồm sự trượt của đĩa và lồi cầu ra phía sau và lên trên, cùng với sự xoay của lồi cầu ra sau trên đĩa.
  • Đưa hàm ra trước và ra sau: Vận động này xảy ra ở mặt phẳng ngang, lồi cầu và đĩa hoạt động như một đơn vị, di chuyển lên hõm khớp của xương thái dương. Không có vận động xoay nào trong quá trình này.
  • Vận động sang bên: Vận động sang bên cũng xảy ra ở mặt phẳng ngang, một lồi cầu xoay trong hõm khớp trong khi lồi cầu bên kia trượt ra phía trước. Để đưa hàm sang bên trái, lồi cầu trái sẽ xoay và lồi cầu phải trượt ra phía trước. Vận động này diễn ra quanh một trục đứng dọc.

Bài viết trên đã tổng kết những kiến thức liên quan đến giải phẫu khớp thái dương hàm. Nhìn chung, khớp thái dương hàm đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nhai, nói và các hoạt động hàng ngày khác. Vì vậy, nếu bạn gặp bất kỳ vấn đề nào liên quan đến khớp thái dương hàm, hãy tìm kiếm sự tư vấn và điều trị từ các chuyên gia y tế có kinh nghiệm.

Thông tin và sản phẩm gợi ý trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể. Xem thêm