Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Bạn có thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, khó thở dù không vận động nhiều? Bạn lo lắng về vòng eo ngày càng lớn? Đằng sau những triệu chứng này có thể là nguyên nhân từ mỡ nội tạng. Vậy mỡ nội tạng có hại như thế nào đối với sức khỏe của chúng ta?
Mỡ nội tạng là một phần cần thiết để bảo vệ các cơ quan trong cơ thể, nhưng khi vượt quá mức cần thiết, nó có thể gây ra nhiều biến chứng sức khỏe nghiêm trọng. Thường chiếm 10 - 15% tổng lượng mỡ cơ thể, mỡ nội tạng dư thừa không chỉ làm tăng nguy cơ béo phì mà còn liên quan trực tiếp đến nhiều bệnh nguy hiểm.
Mỡ nội tạng tích tụ ở các cơ quan quan trọng như tim, gan, tuyến tụy và ruột. Nó đóng vai trò cung cấp năng lượng và bảo vệ các cơ quan, nhưng khi quá nhiều, nó có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng.
Một trong những tác hại lớn của mỡ nội tạng là tăng nguy cơ mắc tiểu đường loại 2. Khi mỡ nội tạng dư thừa, cơ thể có xu hướng kháng lại insulin, một hormone điều tiết đường huyết. Điều này khiến cho lượng đường trong máu tăng lên, thậm chí ngay cả khi bạn chưa từng mắc tiểu đường.
Mỡ nội tạng tiết ra một loại protein gọi là retinol-binding protein 4 (RBP4), làm tăng khả năng kháng insulin của cơ thể. Do đó, những người có lượng mỡ nội tạng cao có nguy cơ mắc tiểu đường loại 2 cao hơn nhiều so với những người có ít mỡ nội tạng.
Mỡ nội tạng không chỉ gây ra các vấn đề về tim mạch mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến gan. Khi mỡ thừa tích tụ trong gan, nó có thể dẫn đến bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD), một tình trạng mà gan bị viêm do tích tụ quá nhiều mỡ.
Tình trạng này kéo dài sẽ làm tổn thương tế bào gan, gây ra nguy cơ viêm gan và xơ gan. Điều này cũng ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất và chức năng thải độc của gan, từ đó làm tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến gan.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng mỡ nội tạng dư thừa có liên quan chặt chẽ đến tăng huyết áp. Lượng mỡ nội tạng tích tụ có thể ảnh hưởng đến các động mạch, làm tăng sức ép lên hệ thống tim mạch. Điều này làm tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ và các vấn đề về mạch máu khác.
Những người có lượng mỡ nội tạng cao thường có nguy cơ mắc bệnh động mạch vành và các vấn đề liên quan đến van tim. Những biến chứng này không chỉ làm suy giảm sức khỏe tim mạch mà còn có thể gây tử vong nếu không được kiểm soát kịp thời.
Một trong những tác hại nghiêm trọng khác của mỡ nội tạng là nó làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư như ung thư vú, ung thư đại trực tràng và ung thư ruột non.
Nguyên nhân là do mỡ nội tạng ảnh hưởng đến sự cân bằng hormone trong cơ thể và gây ra các tình trạng viêm mãn tính, điều này có thể kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư.
Mỡ nội tạng không chỉ ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng mà còn có tác động đến não bộ. Nghiên cứu cho thấy rằng mỡ bụng có liên quan đến sự suy giảm chức năng não, đặc biệt là khả năng học tập và trí nhớ. Hormone leptin được giải phóng từ các tế bào mỡ, có tác động tiêu cực đến tế bào não, dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.
Ngoài ra, những người có lượng mỡ nội tạng cao thường có mức độ tích tụ amyloid trong não cao hơn, chất này được cho là yếu tố gây ra bệnh Alzheimer. Việc tích tụ mỡ bụng vượt quá mức trung bình có thể làm tăng đến 39% nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ trong vòng 15 năm so với những người có lượng mỡ bụng bình thường.
Giảm mỡ nội tạng không chỉ giúp cải thiện vóc dáng mà còn giúp ngăn ngừa nhiều bệnh nguy hiểm. Để giảm mỡ nội tạng, bạn cần thay đổi lối sống và thực hiện một chế độ ăn uống lành mạnh kết hợp với tập luyện đều đặn. Một số gợi ý để giảm mỡ nội tạng bao gồm:
Việc kiểm soát mỡ nội tạng là yếu tố quan trọng để duy trì sức khỏe tổng thể và ngăn ngừa các bệnh nguy hiểm. Hiểu được mỡ nội tạng có hại như thế nào sẽ giúp bạn có thêm động lực thay đổi lối sống, thực hiện một chế độ ăn uống và luyện tập lành mạnh.
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.