Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Phương pháp chẩn đoán bệnh Parkinson: Chẩn đoán dựa trên triệu chứng và dựa trên các xét nghiệm. Vài nét về Parkinson và thuốc điều trị thường được sử dụng để cải thiện tình trạng bệnh.
Bệnh Parkinson là một trong những loại bệnh vô cùng phổ biến hiện nay. Mặc dù chưa có phương pháp chữa trị dứt điểm tuy nhiên vẫn có thể xử lý triệu chứng bằng các loại thuốc. Hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu về những loại thuốc đó trong bài viết dưới đây nhé!
4 triệu chứng chính của bệnh Parkinson bao gồm: Run, đơ cứng cơ, bất động và cả rối loạn phản xạ tư thế. Ban đầu các triệu chứng chỉ diễn ra nhẹ và tiến triển từ từ.
Chẩn đoán bệnh Parkinson dựa trên 4 triệu chứng chính
Hiện nay chưa có xét nghiệm cụ thể nào để chẩn đoán được chính xác bệnh Parkinson. Bác sĩ cần dựa trên tiền sử bệnh tật, xem xét kỹ các dấu hiệu, triệu chứng hiện tại, khám thần kinh cũng như toàn bộ cơ thể. Các quy trình khám lâm sàng có thể giúp cho bác sĩ định hướng chẩn đoán bệnh Parkinson. Đồng thời chính các triệu chứng cũng như dấu hiệu có được từ việc khám thần kinh sẽ phần nào hỗ trợ cho việc chẩn đoán cũng như xác định bệnh của bác sĩ.
Ngoài ra, bác sĩ còn có thể yêu cầu thực hiện các khảo sát như là xét nghiệm máu hay các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác như MRI, CT và PET để loại trừ các bệnh khác.
Ngoài việc thăm khám, để chẩn đoán bệnh Parkinson thì bác sĩ còn có thể kiểm tra phản ứng đáp ứng với carbidopa - levodopa bằng cách cho người bệnh uống thuốc carbidopa-levodopa sau đó đánh giá đáp ứng với thuốc. Người bệnh có thể sẽ được sử dụng liều vừa đủ để cho thấy việc sử dụng thuốc có cải thiện các dấu hiệu của bệnh Parkinson hay không.
Nếu như các triệu chứng được cải thiện đáng kể sau khi sử dụng thuốc thì có thể chẩn đoán rằng người đó đã mắc bệnh Parkinson. Tuy nhiên đối với những trường hợp phức tạp hơn, người bệnh có thể phải tái khám nhiều lần để điều tra tình trạng bệnh cũng như tìm cách điều trị bệnh Parkinson hiệu quả.
Chẩn đoán bệnh dựa trên các xét nghiệm
Carbidopa/ Levodopa thường được điều chế dưới dạng giải phóng nhanh, giải phóng kéo dài, và dạng viên nén có thể phân rã trong miệng. Một dạng mới hơn của carbidopa/levodopa giải phóng kéo dài (IPXo66) đã được thiết kế để có thể hấp thu nhanh hơn, dễ sử dụng, và thời gian tác dụng trên lâm sàng dài hơn. IPXo66 đã được chứng minh rằng có khả năng cải thiện được thời gian tác dụng mà không gây ra loạn động khó chịu hay giảm thời gian off trong quá trình bệnh Parkinson tiến triển
Levodopa/ Carbidopa thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng có liên quan đến bệnh Parkinson và các bệnh khác theo quy định của bác sĩ.
Đây là loại thuốc kết hợp anti dyskinetic. Levodopa được chuyển hóa bởi cơ thể và não tạo thành chất giúp giảm chấn động và các triệu chứng khác của bệnh Parkinson. Còn carbidopa giúp đưa levodopa đến được tới não. Do đó chúng thường được sử dụng kết hợp với nhau.
Đối với bệnh Parkinson giai đoạn đầu nên điều trị bằng thuốc viên tan rã dạng uống. Đầu tiên sử dụng 1 viên 3-4 lần một ngày. Bác sĩ có thể tiến hành điều chỉnh liều dùng khi cần thiết. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá 8 viên mỗi ngày.
Levodopa/ Carbidopa là loại thuốc phổ biến dùng để điều trị Parkinson
Đây là nhóm thuốc có thể kích thích trực tiếp lên các receptor dopamine. Chúng có thời gian bán hủy dài hơn so với levodopa (trên 6 giờ), tuy nhiên cũng có tỷ lệ gây ra các tác dụng phụ như loạn thần, ảo giác và rối loạn kiểm soát ham muốn cao hơn.
Các đồng vận dopamin bao gồm pramipexole, ropinirole (dạng giải phóng nhanh và giải phóng kéo dài), rotigotine (dạng dán trên da), và cả apomorphine tiêm dưới da thường được sử dụng như một thuốc cứu nguy trong những giai đoạn off cấp tính.
Các chất ức chế COMT có khả năng làm giảm quá trình phân hủy levodopa thành 3 - O - methyldopa. Cũng như tăng thời gian bán hủy của levodopa trong huyết tương cũng như diện tích dưới đường cong của nó. Các chất ức chế COMT thường được sử dụng kết hợp với levodopa để có thể cải thiện thời gian hết tác dụng cuối liều, mặc dù chúng có thể làm tăng rối loạn vận động. Các chất ức chế COMT thường được sử dụng hiện nay bao gồm entacapone và tolcapone.
Entacapone thường được sử dụng kèm với levodopa
Đây là nhóm thuốc có khả năng ngăn giáng hóa levodopa trong não và hạn chế tái hấp thu thuốc. Điển hình nhất là Selegiline, chúng có khả năng ức chế chọn lọc và không đảo ngược nên được cấp phép là thuốc bổ trợ cho levodopa ở bệnh nhân có các rối loạn vận động.
Được sử dụng nhiều nhất là trihexyphenidyl và benztropine. Chúng là những thuốc đầu tiên được sử dụng để điều trị bệnh Parkinson. Ngày nay chúng thường được dùng để điều trị run khi bị bệnh Parkinson ở người trẻ vì những tác dụng phụ có thể gặp phải bao gồm khô miệng, lú lẫn, bí tiểu, và táo bón.
Trihexyphenidyl hiện nay không được sử dụng nhiều do có nhiều tác dụng phụ
Trên đây chính là những thông tin về bệnh Parkinson và thuốc điều trị được sử dụng. Cần lưu ý đây chỉ là kiến thức tham khảo, tuyệt đối không được tự ý sử dụng thuốc mà phải hỏi ý kiến của các bác sĩ.
Xem thêm:
Thảo My
Nguồn tham khảo: Tổng hợp