Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Terbinafine hydrochloride (Terbinafin hydroclorid).
Loại thuốc
Thuốc chống nấm, dẫn chất allylamin.
Dạng thuốc và hàm lượng
Terbinafine hydrochloride được dùng uống để điều trị bệnh nhiễm nấm da ở da và móng tay, móng chân.
Terbinafine hydrochloride cũng được dùng ngoài da để điều trị bệnh nấm da, lang ben và bệnh nấm Candida da.
Terbinafine là một dẫn xuất tổng hợp của allylamin có hoạt tính chống nấm phổ rộng. Thuốc ngăn cản sinh tổng hợp ergosterol (thành phần chủ yếu của màng tế bào nấm) do ức chế enzym squalen monooxygenase (squalen 2,3-epoxydase). Điều này dẫn đến sự tích lũy squalen (là cơ chất của enzym) trong tế bào nấm và sự thiếu hụt sterol, đặc biệt ergosterol trong màng tế bào nấm, là những yếu tố gây chết tế bào nấm.
Terbinafine có tác dụng diệt nấm hoặc kìm nấm tùy theo nồng độ thuốc và chủng nấm thực nghiệm. Thuốc có hoạt tính diệt nấm đối với nhiều loại nấm, gồm các nấm da như Trichophyton mentagophytes, T. rubrum, T.verrucosum, Microsporum gypseum,
M. nanum, Epidermophyton floccosum; nấm sợi như Aspergillus; nấm lưỡng hình như Blastomyces; mốc và men như Candida albicans, C. parapsilosis và Scopulariopsis brevicaulis.
Terbinafine hydrochloride hấp thu tốt qua đường tiêu hóa (> 70%). Sinh khả dụng đường uống khoảng 40% ở người lớn, 36 - 64% ở trẻ em do sự chuyển hóa ban đầu ở gan. Sinh khả dụng dạng dùng ngoài khoảng 5%.
Terbinafine gắn tỷ lệ cao vào protein huyết tương (> 99%). Thể tích phân bố là 1000 lít. Thuốc được phân bố chủ yếu vào lớp sừng của da, lớp bã nhờn, móng chân, móng tay, tóc, ở đó thuốc đạt nồng độ cao hơn đáng kể so với nồng độ trong huyết tương.
Terbinafine chuyển hóa ở gan thành các chất chuyển hóa không có hoạt tính.
Thải trừ chủ yếu trong nước tiểu (70 - 75%). Thời gian bán thải khoảng 30 giờ.
Terbinafine có thể được khử amin thành 1-naphthaldehyde bởi CYP2C9, 2B6, 2C8, 1A2, 3A4 và 2C19.6 1-naphthaldehyde sau đó được oxy hóa thành axit 1-naphthoic hoặc bị khử thành 1-naphthalenemethanol.
Terbinafine cũng có thể được hydroxyl hóa bởi CYP1A2, 2C9, 2C8, 2B6 và 2C19 thành hydroxyterbinafine.6 Hydroxyterbinafine sau đó được oxy hóa thành carboxyterbinafine hoặc N-demethyl hóa bởi CYP3A4, 2B6, 1A2, 2C9, 2Cxyter desmethylfine, C19 thành desmethylhydro.
Terbinafine có thể được N-demethyl hóa thành desmethylterbinafine.6 Desmethylterbinafine sau đó được dihydroxyl hóa thành desmethyldihydrodiol hoặc hydroxyl hóa thành desmethylhydroxyterbinafine.
Cuối cùng, Terbinafine có thể được dihydroxyl hóa thành dihydrodiol, sau đó N-demethyl hóa thành desmethyldihydrodiol.
Các thuốc ức chế chuyển hóa terbinafine qua enzym cytochrom P450, như cimetidin, có thể làm tăng nồng độ huyết tương của terbinafine và các thuốc gây cảm ứng enzym cytochrom P450, như rifampicin, có thể làm làm giảm nồng độ huyết tương của terbinafine. Các rối loạn kinh nguyệt, kể cả xuất huyết, đã xảy ra ở người bệnh dùng thuốc tránh thai uống và terbinafine.
Terbinafine ức chế chuyển hóa thông qua isoenzym CYP2D6 của cytochrom P450. Do đó, thuốc này có thể ảnh hưởng đến nồng độ huyết tương của các thuốc bị chuyển hóa chủ yếu bởi enzym này như các thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc chống loạn nhịp (như flecainid và propafenon), thuốc chẹn beta, các thuốc ức chế sự hấp thu lại serotonin chọn lọc (SSRI), các thuốc ức chế monoamin oxydase loại B, cần phải giảm liều lượng các thuốc này.
Việc sử dụng đồng thời terbinafine uống và cyclosporin làm tăng sự thanh thải của cyclosporin 15%.
Dùng đồng thời terbinafine uống và rifampin làm tăng sự thanh thải của terbinafine 100%.
Dùng đồng thời terbinafine uống và warfarin làm tăng hoặc giảm thời gian prothrombin.
Tránh dùng đồng thời terbinafine uống với bất cứ thuốc nào trong các thuốc sau đây: Pimozid, tamoxifen, thioridazin.
Terbinafine có thể làm giảm sự chuyển hóa của caffeine khoảng 19%, theo dõi sự gia tăng tác dụng của caffeine.
Quá mẫn với terbinafine hoặc với bất cứ thành phần nào của chế phẩm.
Người lớn
Terbinafine đường uống
Điều trị bệnh nấm bẹn: Uống 250 mg/lần, 1 lần/ngày, trong 2 - 4 tuần. Dùng liều hàng ngày như trên trong 4 tuần để điều trị bệnh nấm da thân và trong tối đa 6 tuần để điều trị bệnh nấm da chân và nấm da đầu.
Điều trị bệnh nấm móng (móng tay, móng chân): Uống 250 mg/lần, 1 lần/ngày, trong 6 - 12 tuần, nhưng có thể điều trị trong thời gian dài hơn đối với bệnh nấm móng chân.
Terbinafine dùng tại chỗ
Bệnh nấm da chân: Bôi thuốc hoặc xịt dung dịch vào vùng bị bệnh, ngày 1 lần, trong ít nhất 1 tuần, không được quá 4 tuần.
Bệnh nấm candida da: Bôi thuốc hoặc xịt dung dịch vào vùng bị bệnh, ngày 1 - 2 lần, trong 7 - 14 ngày.
Bệnh nấm da thân và nấm da đùi: Bôi kem vào vùng bị bệnh, ngày 1 lần, trong ít nhất 1 tuần, không được quá 4 tuần; bôi gel hoặc xịt dung dịch vào vùng bị bệnh, ngày 1 lần, trong 7 ngày.
Lang ben (người lớn): Bôi kem hoặc xịt dung dịch vào vùng bị bệnh, ngày 1 - 2 lần, trong 2 tuần.
Trẻ em
Terbinafine uống: Không khuyến cáo dùng cho trẻ em.
Nếu dùng: Trẻ em trên 1 năm tuổi, cân nặng 10 - 20 kg: 62,5 mg, ngày uống một lần. Trẻ em nặng 20 - 40 kg: 125 mg, ngày uống một lần. Trẻ em nặng trên 40 kg: 250 mg, ngày uống một lần.
Terbinafine dùng tại chỗ
Trẻ em ≥ 12 tuổi: Dùng tương tự người lớn.
Đối tượng khác
Người suy thận: Không dùng terbinafine uống cho người bệnh có Clcr < 50 ml/phút.
Người suy gan: Không dùng terbinafine uống khi người bệnh đã bị bệnh gan (như xơ gan).
Viên nén được dùng uống, không cần chú ý đến bữa ăn. Thuốc cốm được rắc trên một thìa thức ăn không có vị chua và nuốt mà không nhai.
Liều lượng được tính theo terbinafine. 1,13 g terbinafine hydrochloride tương đương với khoảng 1g terbinafine.
Điều trị thường kéo dài 4 tuần cho nấm da đầu; 2 - 6 tuần cho nấm bàn chân; 2 - 4 tuần cho nấm bẹn; 4 tuần cho nấm thân; 6 tuần - 3 tháng cho nấm móng (đôi khi lâu hơn cho nấm móng chân).
Terbinafine dùng uống:
Đau đầu, ban, ngứa, mày đay, viêm mũi họng, ho, sung huyết mũi, đau họng, sổ mũi, tiêu chảy, khó tiêu, buồn nôn, nôn, đau bụng, mất hoặc rối loạn vị giác (đôi khi nặng dẫn đến chán ăn và sút cân), đau răng, bất thường về enzym gan, đau cơ, đau khớp.
Dị cảm, giảm cảm giác, chóng mặt, khó chịu, mệt nhọc, trầm cảm, lo âu.
Phản ứng da nặng gồm phù mạch, nhạy cảm ánh sáng, hội chứng Stevens-Johnson, hoại tử tiêu biểu bì nhiễm độc, lupus ban đỏ da và toàn thân, ứ mật, viêm gan, vàng da, suy gan.
Ban dạng vẩy nến, bệnh vẩy nến, bệnh mụn mủ ngoại ban; tiêu cơ vân, giảm bạch cầu trung tính, giảm lượng tiểu cầu, mất bạch cầu hạt, giảm toàn thể huyết cầu, phản ứng dị ứng, phản vệ, thay đổi ở thủy tinh thể và võng mạc, giảm thị trường; mũi: Mất khứu giác, viêm tụy, viêm mạch.
Terbinafine dùng tại chỗ:
Thuốc có thể gây mẩn đỏ, ngứa, đau nhói chỗ bôi. Trong một số trường hợp hiếm, có thể gây dị ứng, phát ban da, sưng đau.
Nhiễm độc gan và viêm gan ứ mật nặng đã xảy ra ở người bệnh uống terbinafine. Suy gan, đôi khi dẫn đến tử vong hoặc ghép gan, đã xảy ra tuy rất hiếm ở người bệnh đã có hoặc không có bệnh gan uống terbinafine để điều trị nấm móng tay chân. Không dùng terbinafine cho người bệnh có bệnh gan đang diễn tiến hoặc mạn tính và cần làm xét nghiệm chức năng gan cho tất cả người bệnh trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc uống. Phải ngừng terbinafine nếu các dấu hiệu và/hoặc triệu chứng lâm sàng hoặc các kết quả xét nghiệm hóa sinh chứng tỏ sự nhiễm độc gan gồm rối loạn năng gan mật và viêm gan ứ mật tiến triển.
Cũng phải ngừng terbinafine nếu ban da tiến triển xảy ra. Sử dụng thuốc thận trọng đối với người bệnh có bệnh vảy nến và người bệnh nhạy cảm với thuốc chống nấm allylamin.
Không dùng terbinafine cho người bệnh suy thận (Clcr ≤ 50 ml/phút). Phải theo dõi huyết học. Có thể giảm số lượng tuyệt đối tế bào lymphô, giảm năng bạch cầu đa nhân trung tính, giảm tiểu cầu, mất bạch cầu hạt, giảm huyết cầu, thiếu máu.
Ở người suy giảm miễn dịch, phải theo dõi huyết đồ, nếu uống terbinafine trên 6 tháng. Phải theo dõi các biểu hiện ở da khi dùng terbinafine. Phải ngừng thuốc khi thấy biểu hiện của hội chứng Stevens-Johnson hoăc hoại tử biểu bì nhiễm độc (TEN).
Các dạng thuốc chứa terbinafine dùng tại chỗ chỉ được dùng ngoài da. Không được để thuốc tiếp xúc với mắt cũng như không dùng trong âm đạo hoặc uống. Ngoài ra, nên tránh tiếp xúc với mũi, miệng và các màng nhầy khác. Nên khuyên người bệnh tránh mặc quần áo chật hoặc băng bít kín. Nếu thuốc vô tình tiếp xúc với mắt thì cần lau mắt sạch và rửa mắt cẩn thận bằng nước chảy.
Đối với nhiễm nấm Candida: Không nên dùng xà phòng có pH acid (pH acid tạo thuận lợi cho nấm Candida phát triển ở da).
Không dùng terbinafine uống trong thời kỳ mang thai, nên hoãn việc điều trị bệnh nấm da và nấm móng đến sau khi sinh con.
Terbinafine được phân bố trong sữa mẹ nên không dùng trong thời kỳ cho con bú (kể cả dạng bôi ngoài).
Không có nghiên cứu nào được thực hiện về ảnh hưởng của việc điều trị terbinafine đối với khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Những bệnh nhân bị chóng mặt do tác dụng không mong muốn nên tránh lái xe hoặc sử dụng máy móc trong quá trình dùng thuốc.
Quá liều và độc tính
Kinh nghiệm lâm sàng về quá liều terbinafine còn hạn chế, có trường hợp sử dụng liều trên 5 g (gấp 20 lần liều điều trị hàng ngày) đã gây các tác dụng có hại, gồm buồn nôn, nôn, đau bụng, chóng mặt, phát ban, tiểu tiện nhiều, đau đầu.
Cách xử lý khi quá liều
Điều trị triệu chứng.
Nếu quên dùng một liều thuốc, hãy dùng càng sớm càng tốt khi nhớ ra. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Không dùng gấp đôi liều đã quy định.
Tên thuốc: Terbinafine
Ngày cập nhật: 17/07/2021