Các loại xét nghiệm sốt xuất huyết trong chẩn đoán
Ngày 19/04/2024
Kích thước chữ
Mặc định
Lớn hơn
Việt Nam là vùng có số ca mắc sốt xuất huyết hàng năm rất cao, đề ra thách thức cho các bác sĩ trong việc chẩn đoán chính xác và kịp thời các giai đoạn của bệnh. Vì vậy bên cạnh triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm sốt xuất huyết là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ chẩn đoán.
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm do virus sốt xuất huyết gây ra, lây truyền sang người thông qua vết đốt của muỗi mang mầm bệnh, đặc biệt là muỗi Aedes aegypti. Những người bị sốt xuất huyết có thể không có triệu chứng hoặc sốt cao, nhức đầu, đau cơ và khớp, buồn nôn, nôn mửa và có những đốm đỏ hoặc chảy máu nhỏ trên da. Sốt xuất huyết nặng có thể dẫn đến suy hệ thống tuần hoàn, sốc và thậm chí tử vong. Do đó việc sử dụng các xét nghiệm sốt xuất huyết để hỗ trợ chẩn đoán và điều trị kịp thời là việc vô cùng quan trọng.
Các giai đoạn của bệnh ảnh hưởng đến xét nghiệm sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là một bệnh nhiễm do virus gây ra, có thể được gây ra bởi bốn chủng virus sốt xuất huyết (DENV-1 đến DENV-4). Bạn có thể bị nhiễm bệnh nếu bị muỗi nhiễm bệnh đốt và bệnh xuất hiện nhiều ở những khu vực ấm áp, ẩm ướt trên thế giới và bùng phát phổ biến hơn vào mùa mưa. Các triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết bao gồm:
Đau nhức (đau mắt, thường là sau mắt và đau ở cơ, khớp hoặc xương).
Diễn tiến của bệnh sốt xuất huyết có thể chia thành 2 giai đoạn cấp tính và hồi phục.
Giai đoạn cấp tính:
Khoảng thời gian từ 1 đến 7 ngày đầu sau khi xuất hiện triệu chứng được gọi là giai đoạn cấp tính của bệnh sốt xuất huyết.
Trong giai đoạn này, virus sốt xuất huyết thường hiện diện trong máu hoặc các chất dịch có nguồn gốc từ máu như huyết thanh hoặc huyết tương.
RNA virus sốt xuất huyết có thể được phát hiện bằng xét nghiệm phân tử.
Protein phi cấu trúc NS1 là protein của virus sốt xuất huyết cũng có thể được phát hiện bằng một số xét nghiệm test nhanh NS1.
Giai đoạn hồi phục:
Khoảng thời gian hơn 7 ngày sau khi khởi phát triệu chứng được gọi là giai đoạn hồi phục của bệnh sốt xuất huyết.
Bệnh nhân có kết quả xét nghiệm xét nghiệm phân tử hoặc NS1 âm tính và xét nghiệm kháng thể IgM âm tính trong 7 ngày đầu mắc bệnh.
Trong giai đoạn hồi phục, kháng thể IgM thường xuất hiện và có thể được phát hiện thông qua xét nghiệm kháng thể IgM.
Kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết có thể được phát hiện trong 3 tháng hoặc lâu hơn sau khi nhiễm bệnh.
Kháng thể IgG có thể xuất hiện từ ngày 10 trở đi và có thể tồn tại nhiều năm sau đó.
Một số xét nghiệm sốt xuất huyết
Xét nghiệm sốt xuất huyết kiểm tra mẫu được lấy trong cơ thể để xem bạn có nhiễm virus hay không. Các loại xét nghiệm bao gồm:
Xét nghiệm NS1
Xét nghiệm NS1 phát hiện protein phi cấu trúc NS1 của virus sốt xuất huyết, protein này được tiết vào máu trong quá trình nhiễm sốt xuất huyết. NS1 đã được phát triển để sử dụng trong huyết thanh. Hầu hết các xét nghiệm này sử dụng kháng thể được đánh dấu tổng hợp để phát hiện protein NS1 sốt xuất huyết.
NS1 được phát hiện trong giai đoạn cấp tính của nhiễm virus sốt xuất huyết. Xét nghiệm NS1 có thể nhạy cảm như xét nghiệm phân tử trong 0-7 ngày đầu tiên xuất hiện triệu chứng. Sau ngày thứ 7, không nên xét nghiệm NS1 vì khả năng dương tính thấp.
Các nghiên cứu cho thấy NS1 có thể được tìm thấy trong máu toàn phần hoặc huyết tương, nhưng hầu hết các xét nghiệm NS1 đều được phát triển và đánh giá trong các mẫu huyết thanh.
Giải thích kết quả:
Kết quả xét nghiệm NS1 dương tính xác nhận nhiễm virus sốt xuất huyết mà không cung cấp thông tin về kiểu huyết thanh.
Kết quả xét nghiệm NS1 âm tính cũng không loại trừ khả năng nhiễm bệnh. Những người có kết quả NS1 âm tính nên được xét nghiệm sự hiện diện của kháng thể IgM sốt xuất huyết để xác định khả năng đã phơi nhiễm sốt xuất huyết.
Xét nghiệm tìm kháng thể IgM, IgG (MAC-ELISA)
MAC-ELISA sốt xuất huyết được sử dụng để phát hiện định tính kháng thể IgM và IgG virus sốt xuất huyết. MAC-ELISA dựa trên việc thu thập kháng thể IgM, IgG của người trên một tấm microtiter sử dụng kháng thể kháng IgM của người, sau đó bổ sung các kháng nguyên virus sốt xuất huyết. Các kháng nguyên được sử dụng cho xét nghiệm này có nguồn gốc từ protein vỏ của bốn type huyết thanh virus sốt xuất huyết (DENV-1-4).
Khi hệ thống miễn dịch chống lại sự lây nhiễm, kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết có thể được phát hiện bắt đầu từ 4-5 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng và có thể tồn tại được trong khoảng 12 tuần. Kháng thể IgG có thể được phát hiện sau 10 đến 14 ngày sau khi nhiễm bệnh lần đầu tiên hoặc phát hiện tăng cao trong sau 1 đến 2 ngày sau khi nhiễm từ lần thứ 2 trở đi.
Xét nghiệm kết hợp với NS1 thường cung cấp kết quả chẩn đoán trong 1-7 ngày đầu của bệnh. Cần lấy mẫu bệnh phẩm ở giai đoạn hồi phục để chẩn đoán nhiễm virus sốt xuất huyết khi kết quả âm tính trên cả hai xét nghiệm từ mẫu bệnh phẩm cấp tính.
Việc phát hiện kháng thể IgM không hữu ích trong việc xác định kiểu huyết thanh của virus sốt xuất huyết.
Giải thích kết quả:
IgM dương tính: Bệnh nhân nhiễm virus sốt xuất huyết gần đây, trong vòng 7 ngày.
IgM âm tính:
Bệnh nhân có kết quả IgM âm tính trước ngày thứ 7 của bệnh và không có hoặc âm tính với kết quả NS1 được coi là trường hợp chưa được xác nhận. Đối với những trường hợp này, nên lấy mẫu thứ hai sau ngày thứ 7 xuất hiện các triệu chứng để xét nghiệm huyết thanh bổ sung hay có thể tìm kháng thể IgG sau 10-14 ngày xuất hiện các triệu chứng.
Bệnh nhân có kết quả IgM âm tính sau 7 ngày kể từ khi có triệu chứng và NS1 âm tính (phát hiện kháng nguyên virus sốt xuất huyết) được phân loại là âm tính với nhiễm trùng, không nhiễm virus Dengue.
Xét nghiệm đi kèm
Bên cạnh những xét nghiệm chẩn đoán sốt xuất huyết, bác sĩ có thể đề nghị làm một số xét nghiệm đi kèm nhằm để theo dõi và điều trị bệnh.
Công thức máu: Bạch cầu bình thường hoặc giảm, Hct tăng, nếu Hct tăng cao > 20% so với bình thường được gọi là cô đặc máu. Tiểu cầu giảm (<100.000/ul).
Men gan: AST, ALT có thể bình thường hoặc tăng (AST>ALT).
Xét nghiệm đông máu (APTT, PT, INR, Fibrinogen): Có thể rối loạn đông máu với APTT tăng, Fibrinogen máu giảm, PT và D-Dimer bình thường hay tăng nhẹ.
Siêu âm bụng: Dày thành túi mật, gan to, tràn dịch màng bụng.
Tóm lại, nếu bạn có các triệu chứng phù hợp với bệnh sốt xuất huyết, có thể bạn sẽ được các bác sĩ đề nghị làm các xét nghiệm sốt xuất huyết bao gồm xét nghiệm NS1 và huyết thanh học trong 7 ngày đầu tiên của bệnh. Sau 7 ngày đầu bị bệnh, chỉ xét nghiệm bằng chẩn đoán huyết thanh học mới có giá trị phát hiện bệnh.
Thông tin và sản phẩm gợi ý trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể. Xem thêm
Dược sĩ chuyên khoa Dược lý - Dược lâm sàng. Tốt nghiệp 2 trường đại học Mở và Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có kinh nghiệm nghiên cứu về lĩnh vực sức khỏe, đạt được nhiều giải thưởng khoa học. Hiện là Dược sĩ chuyên môn phụ trách xây dựng nội dung và triển khai dự án đào tạo - Hội đồng chuyên môn tại Nhà thuốc Long Châu.