Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Ánh Vũ
Mặc định
Lớn hơn
U tế bào biểu mô quanh mạch máu gan là một loại u hiếm gặp. Chính vì thế mà có không ít độc giả vẫn chưa có nhiều thông tin về loại u này cũng như hướng điều trị. Trong bài viết sức khỏe hôm nay, Nhà thuốc Long Châu sẽ chia sẻ đến bạn đọc những thông tin cơ bản nhất về hướng điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan.
Hướng điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan như thế nào vẫn luôn là chủ đề được nhiều độc giả quan tâm. Nếu bạn cũng đang quan tâm đến chủ đề này thì đừng nên bỏ qua bài viết dưới đây bạn nhé. Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về hướng điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan, hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu sơ qua về u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan trước nhé.
U tế bào biểu mô quanh mạch (PEComas) là một nhóm hiếm của các khối u trung mô, có nguồn gốc từ các tế bào biểu mô quanh mạch, với đặc điểm mô học là tế bào sáng hoặc tế bào hình thoi, có biểu hiện miễn dịch dương tính với các dấu ấn melanocytic và cơ trơn. PEComas có thể xuất hiện ở nhiều cơ quan khác nhau như phổi, thận, tử cung, gan, đường tiêu hóa nhưng sự xuất hiện ở gan rất hiếm gặp.
Hiện nay, đã có bằng chứng rõ ràng cho thấy u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan có nguồn gốc từ mô trung mô, bao gồm các thành phần như mạch máu, cơ trơn và tế bào mỡ. Tuy nhiên, tỷ lệ các thành phần này có sự khác biệt giữa các bệnh nhân. Phần lớn bệnh nhân có thể cảm thấy khó chịu ở bụng nhưng thường không có bất thường nào trong các xét nghiệm huyết thanh.
Cơ chế bệnh sinh của PEComa gan vẫn chưa được làm sáng tỏ. Trong khi hơn 50% AML (angiomyolipoma) thận có liên quan đến bệnh xơ cứng củ (TSC) thì chỉ khoảng 5% - 15% bệnh nhân có khối u gan đơn độc có liên quan đến tình trạng này. Phần lớn PEComa gan là lành tính và các trường hợp ác tính cực kỳ hiếm gặp. Do số lượng báo cáo về PEComa gan ác tính còn hạn chế, hiện vẫn chưa có tiêu chuẩn rõ ràng để xác định tính ác tính của khối u này.
Triệu chứng của u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan (PEComa gan) thường không đặc hiệu và hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng rõ ràng. Đa số PEComa gan được phát hiện khi bệnh nhân đi khám sức khỏe định kỳ hoặc thực hiện các xét nghiệm hình ảnh (siêu âm, CT, MRI) vì một lý do khác.
Nếu kích thước khối u nhỏ, bệnh nhân thường không có cảm giác khó chịu. Khi khối u lớn hoặc tiến triển, người bệnh có thể phải đối mặt với cơn đau tức vùng thượng vị hoặc hạ sườn phải do khối u phát triển lớn, chèn ép các cơ quan lân cận.
Do tính chất hiếm gặp của bệnh, chẩn đoán u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan thường dựa vào mô bệnh học và hóa mô miễn dịch. Vậy điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan như thế nào?
Cơ sở lựa chọn điều trị bảo tồn, trước hết phải kể đến đó là u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan (PEComa gan) không chỉ xuất hiện dưới dạng khối u đơn lẻ mà còn có thể là biểu hiện của bệnh xơ cứng củ TSC - một bệnh di truyền đặc trưng bởi các cơn động kinh, sự phát triển của khối u ở não, tim, thận và da cũng như một nhóm hội chứng thần kinh đặc trưng được gọi là bệnh thần kinh liên quan đến TSC.
PEComa gan ở bệnh nhân mắc TSC có liên quan đến bất hoạt lưỡng alen của TSC2 (phổ biến hơn) hoặc TSC1. Đột biến dòng mầm ở TSC2 là nguyên nhân gây ra TSC trong khi một đột biến thứ hai dẫn đến hoạt hóa quá mức mTORC1 – một protein quan trọng trong con đường tín hiệu tế bào, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển khối u.
Những thay đổi do các gen này gây ra có liên quan đến sự hình thành PEComa làm cơ sở cho việc sử dụng các chất ức chế con đường mTOR như sirolimus và everolimus trong điều trị. Một nghiên cứu của Martignoni và cộng sự phát hiện rằng mTORC1 hoạt hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của PEComa gan bất kể có liên quan đến TSC hay không. Trong một nghiên cứu mô hình TSC tiền lâm sàng trên động vật, sirolimus đã cho thấy hiệu quả đáng kể trong việc kiểm soát khối u.
Trong các nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo, Wagner và cộng sự báo cáo hiệu quả tích cực của sirolimus đường uống trong điều trị ba bệnh nhân mắc PEComa gan ác tính dựa trên những thay đổi trong hình ảnh khối u. Điều này cho thấy sirolimus có thể là một liệu pháp miễn dịch tiềm năng cho PEComa gan. Italiano và cộng sự cũng ghi nhận hiệu quả của chất ức chế mTOR trong điều trị PEComa gan. Trong các trường hợp PEComa không thể phẫu thuật, liệu pháp tân bổ trợ bằng sirolimus có thể giúp thu nhỏ khối u, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật cắt bỏ.
Một nghiên cứu gần đây sử dụng miễn dịch mô hóa học và phân tích miễn dịch huỳnh quang đa phát phát hiện rằng PEComa gan chứa số lượng lớn tế bào miễn dịch, chủ yếu là tế bào lympho và đại thực bào CD68+. Điều này cho thấy PEComa gan có mức độ tế bào miễn dịch cao có thể làm chậm sự phát triển của khối u và gợi ý rằng khối u có hành vi trơ.
Dựa trên những phát hiện trên, điều trị bảo tồn và theo dõi định kỳ có thể là phương pháp hiệu quả cho bệnh nhân không có triệu chứng, có khối u nhỏ hoặc không đủ điều kiện phẫu thuật.
Nhìn chung, PEComa phần lớn là lành tính, có xu hướng phát triển chậm, trong khi PEComa ác tính cực kỳ hiếm. Việc điều trị bảo tồn dài hạn có thể giúp theo dõi quá trình tiến triển của khối u và phát hiện sớm những thay đổi ác tính. Việc kéo dài thời gian theo dõi có thể giúp đánh giá tốt hơn nguy cơ chuyển thành PEComa ác tính tại một hạch nhất định trong quá trình phát triển khối u. Tuy nhiên, cần thêm các thử nghiệm lâm sàng để xác nhận hiệu quả của các phương pháp điều trị này.
Việc lựa chọn điều trị phẫu thuật trực tiếp chủ yếu dựa trên các cân nhắc sau:
Ngoài ra, vì nguy cơ chuyển đổi ác tính trong quá trình phát triển vẫn chưa được xác định nên lựa chọn phẫu thuật là hợp lý trong trường hợp không có phương pháp điều trị chắc chắn cho PEComa gan tiến triển. Panahova và cộng sự đã báo cáo rằng chỉ thực hiện sinh thiết có thể không đủ để đánh giá liệu PEComa có phải là khối u ác tính hay không vì chỉ mẫu mô từ phẫu thuật cắt bỏ mới có thể xác định chính xác mức độ tăng trưởng xâm lấn và tỷ lệ nguyên phân.
Cuối cùng, ghép gan có thể được xem là phương pháp điều trị cuối cùng cho các trường hợp PEComa không thể cắt bỏ, đặc biệt với khối u gan lớn hoặc nhiều. Nếu bệnh nhân không thể cắt bỏ bằng phẫu thuật, liệu pháp chuyển đổi tân bổ trợ có thể là một chiến lược phù hợp cho các khối u PEComa dương tính với PET, giúp thu nhỏ khối u và tạo điều kiện cho phẫu thuật.
Dựa trên phân tích trên, chiến lược điều trị do Yang và cộng sự đề xuất có thể phù hợp. Các tác giả khuyến nghị theo dõi hình ảnh và điều trị bảo tồn cho những bệnh nhân:
Vì tốc độ tăng kích thước trung bình của khối u chỉ khoảng 0,77 cm/năm, có thể tiến hành chụp hình ảnh giám sát đầu tiên sau 1 năm kể từ khi chẩn đoán, sau đó theo dõi định kỳ 2 năm một lần. Khi chẩn đoán hình ảnh không chắc chắn, có thể thực hiện sinh thiết. Nếu sinh thiết không đưa ra kết luận rõ ràng hoặc bệnh nhân có yếu tố nguy cơ ác tính (như đặc điểm biểu mô hoặc hoạt động tăng sinh cao), nên cân nhắc cắt bỏ khối u.
Các chỉ định cắt bỏ khác bao gồm triệu chứng lâm sàng hoặc sự phát triển xâm lấn. Ngoài ra, bệnh nhân mắc TSC có thể cần theo dõi lâu hơn hoặc thường xuyên hơn do TSC được xem là một yếu tố nguy cơ tiến triển bệnh.
Trên đây là toàn bộ những thông tin cơ bản xoay quanh việc điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan mà Nhà thuốc Long Châu đã tổng hợp để chia sẻ đến quý độc giả. Mong rằng, với những chia sẻ hôm nay, bạn đọc sẽ phần nào hiểu được về hướng điều trị u tế bào biểu mô quanh mạch máu gan. Cảm ơn quý vị đã luôn đồng hành và dõi theo Nhà thuốc Long Châu.
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.