Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Xạ trị ung thư gan là một trong những phương pháp điều trị không phẫu thuật hiệu quả trong việc kiểm soát ung thư gan, đặc biệt khi phẫu thuật không phải là lựa chọn phù hợp. Phát hiện và điều trị sớm ung thư gan đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng sống sót của người bệnh và phương pháp xạ trị đã mang lại nhiều hy vọng trong điều trị bệnh này. Hãy cùng tìm hiểu phương pháp điều trị ung thư gan trong bài viết dưới đây.
Xạ trị là một trong những phương pháp điều trị ung thư gan tiên tiến, được sử dụng nhằm kiểm soát sự phát triển của khối u và giảm triệu chứng cho bệnh nhân. Cùng tìm hiểu phương pháp xạ trị ung thư gan và một số phương pháp khác điều trị ung thư gan trong bài viết dưới đây của Nhà thuốc Long Châu.
Xạ trị ung thư gan là dùng tia X hoặc các loại tia phóng xạ khác nhằm phá hủy các tế bào ung thư. Dù không phải là phương pháp điều trị chủ yếu cho ung thư gan, xạ trị có thể được áp dụng để giảm đau và kiểm soát triệu chứng khi khối u đã lan rộng.
Xạ trị ung thư gan là một phương pháp điều trị được áp dụng dưới hai hình thức chính.
Có nên thực hiện phẫu thuật cho bệnh nhân ung thư gan không? Phẫu thuật là một phương pháp được khuyến nghị cho những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư gan ở giai đoạn sớm. Hiện có ba loại phẫu thuật chính được áp dụng trong điều trị ung thư gan:
Khi bệnh nhân không có tiền sử bị xơ gan, bác sĩ thường chỉ định cắt gan, vì đây là phương pháp điều trị có tỷ lệ tử vong tương đối thấp và tỷ lệ sống sau phẫu thuật đạt từ 50 – 60%. Đối với những bệnh nhân có tiền sử xơ gan, bác sĩ sẽ cần xem xét kỹ lưỡng các yếu tố liên quan đến bệnh để hạn chế nguy cơ suy giảm chức năng gan trước khi quyết định có thực hiện cắt gan hay không. Thông thường, cắt thùy phải của gan có nguy cơ dẫn đến suy chức năng gan cao hơn so với cắt thùy trái.
Có hai phương pháp cắt gan: cắt gan không có kế hoạch (không dựa trên cấu trúc giải phẫu gan) và cắt gan có kế hoạch. Phương pháp cắt gan có kế hoạch bao gồm các loại sau:
Hiện nay, phương pháp cắt gan nội soi cũng được áp dụng cho những trường hợp mà vị trí khối u thuận lợi cho phẫu thuật nội soi. Kỹ thuật này mang lại nhiều ưu điểm, giúp giảm thiểu tổn thương và thời gian hồi phục sau phẫu thuật.
Ghép gan là phương pháp thay thế phần gan bị bệnh bằng gan của người hiến khỏe mạnh, thường được áp dụng cho bệnh nhân ung thư gan nguyên phát kết hợp xơ gan mất bù. Phương pháp này thường được chỉ định khi bệnh nhân có khối u nhỏ hơn 5cm, hoặc không quá 3 khối u có kích thước lớn hơn 3cm, và khối u chưa lan đến các mạch máu. Bệnh nhân được ghép gan có thời gian sống thêm trung bình hơn 4 năm và tỷ lệ sống không tái phát ung thư đạt tới 85 – 92%. Tuy nhiên, ghép gan là một ca đại phẫu chứa nhiều rủi ro.
Phương pháp này được coi là biện pháp tạm thời và thường áp dụng cho những bệnh nhân không còn khả năng cắt bỏ gan. Bác sĩ sẽ thắt động mạch gan hoặc toàn bộ các mạch máu cung cấp máu cho gan để giảm lượng máu nuôi dưỡng khối u. Kỹ thuật này giúp gây hoại tử phần trung tâm của khối u, làm giảm đau và thu nhỏ kích thước khối u. Sau khi thắt động mạch gan, khoảng 28% bệnh nhân ung thư gan có thể sống thêm hơn 6 tháng.
Các liệu pháp này thường được áp dụng cho bệnh nhân ung thư gan ở giai đoạn đầu hoặc giữa, khi phẫu thuật không phải là lựa chọn phù hợp. Nếu bệnh nhân có ít hơn 3 khối u gan với kích thước từ 3-4 cm và các khối u có thể được tiếp cận dễ dàng dưới sự hướng dẫn của siêu âm, liệu pháp này sẽ được chỉ định.
Dưới đây là một số phương pháp điều trị ung thư gan khác:
Phương pháp TACE (nút mạch hóa chất qua đường động mạch) hoặc TOCE (nút mạch hóa chất qua catheter) là lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân không thể phẫu thuật ung thư gan. Kỹ thuật này thường được chỉ định cho các trường hợp có nhiều khối u, khối u lớn hoặc nhiều khối u nhỏ không thể cắt bỏ. Cơ chế hoạt động là truyền các loại hóa chất (như doxorubicin, cisplatin, mitomycin C hoặc kết hợp nhiều thuốc) vào khối u qua các nhánh động mạch nuôi, đồng thời nút tắc động mạch bằng vật liệu gây tắc mạch.
Thuốc hóa trị tiêu diệt các tế bào ung thư trong khi việc cắt nguồn cung cấp dưỡng chất giúp ngăn khối u phát triển. Ưu điểm của phương pháp này là tính chọn lọc cao, ít xâm lấn, và có thể thực hiện lặp lại nhiều lần để kiểm soát hoặc điều trị u tái phát. Các hạt tải thuốc hiện đại như DC-Bead, Tandem,... giúp phóng thích thuốc hóa trị một cách kiểm soát và tiêu diệt tế bào ung thư lâu dài. Tuy nhiên, phương pháp này không phải là điều trị triệt để và các tác dụng phụ bao gồm chóng mặt, buồn nôn, rụng tóc, suy giảm chức năng thận và loãng xương.
TARE (nút mạch vi cầu phóng xạ) hay SIRT (nút mạch phóng xạ) hoạt động dựa trên nguyên tắc tương tự như TACE, nhưng kỹ thuật phức tạp hơn vì đồng vị phóng xạ Y-90 được bơm trực tiếp vào khối u qua đường động mạch. Tác dụng của đồng vị phóng xạ là tiêu diệt tế bào ung thư thông qua xạ trị tại chỗ, ít ảnh hưởng đến các mô và cơ quan lân cận.
Sử dụng các loại thuốc chống phân bào hoặc chống chuyển hóa như 5-Fluorouracil và Vincristin, nhưng chỉ có 10 - 15% bệnh nhân ung thư gan đáp ứng tốt với hóa trị. Hiện nay, chỉ có sorafenib được chứng minh có hiệu quả trong việc kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân ung thư gan.
Liệu pháp miễn dịch bao gồm việc tiêm BCG trực tiếp vào khối u hoặc tiêm dưới da, sử dụng các tác nhân như LH1 và Levamisol để kích thích hệ miễn dịch của cơ thể tấn công tế bào ung thư.
Như vậy qua bài viết chúng ta đã tìm hiểu về phương pháp xạ trị ung thư gan cũng như những phương pháp điều trị ung thư gan khác. Hẹn bạn đọc ở những bài viết sức khỏe khác của Nhà thuốc Long Châu.
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.