Từng đảm nhiệm vị trí Phó khoa Kiểm soát bệnh tật tại Trung tâm Y tế Quận 1 và sau đó là chuyên viên tại Sở Y tế tỉnh Ninh Thuận. Với hai bằng đại học Y khoa và Dược sĩ, bác sĩ có nhiều kinh nghiệm và am hiểu sâu về y học và dược phẩm.
Thục Hiền
20/10/2025
Mặc định
Lớn hơn
Khi nói đến chăm sóc sức khỏe và kiểm tra tiểu đường, việc sử dụng phương pháp test nhanh là một lựa chọn phổ biến. Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn thắc mắc về độ chính xác của phương pháp này. Liệu test nhanh tiểu đường có chính xác không? Đây là một trong những câu hỏi được nhiều người quan tâm.
Nếu bạn đang tìm kiếm các thông tin về câu hỏi “Phương pháp test nhanh tiểu đường có chính xác không?” thì bài viết dưới đây sẽ cung cấp các thông tin về các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán đái tháo đường, cũng như các ưu và nhược của phương pháp test nhanh giúp bạn giải đáp thắc mắc của mình.
Test nhanh tiểu đường có chính xác không? Test nhanh tiểu đường là một phương pháp đo lượng đường huyết nhanh chóng tại nhà. Tuy nhiên, phương pháp không thể cho kết quả hoàn toàn chính xác do sự tác động từ nhiều yếu tố như thời điểm đo, chế độ ăn uống trong ngày và tình trạng sức khỏe. Vì vậy, trong mọi trường hợp, nếu bạn đang nghi ngờ hoặc muốn kiểm tra lượng đường huyết của mình thì hãy thăm khám tại các cơ sở y tế uy tín, có trang bị đầy đủ các trang thiết bị hỗ trợ cho việc xác định lượng đường huyết và chẩn đoán bệnh lý đái tháo đường.
Mẫu máu sẽ được lấy sau khi bạn nhịn ăn vào đêm hôm trước. Mức đường huyết lúc đói dưới 5,6 mmol/L (100 mg/dL) là bình thường. Mức đường huyết lúc đói từ 5,6 đến 6,9 mmol/L (100 đến 125 mg/dL) được coi là tiền tiểu đường. Nếu kết quả là 7 mmol/L (126 mg/dL) hoặc cao hơn trong hai lần xét nghiệm riêng biệt thì có thể chẩn đoán tiểu đường.
Bạn sẽ được đo lượng đường huyết vào một thời điểm ngẫu nhiên, bất kể thời điểm lần cuối bạn có sử dụng thực phẩm. Nếu mức đường trong máu ở mức 200 mg/dL (11,1 mmol/L) hoặc cao hơn sẽ gợi ý bệnh tiểu đường.
Khi thực hiện xét nghiệm này, người thực hiện được yêu cầu nhịn ăn qua đêm và lượng đường trong máu lúc đói sẽ được đo vào ngày hôm sau. Sau đó, người thực hiện được yêu cầu uống một cốc nước đường và thực hiện đo lượng đường trong máu trong hai giờ tiếp theo. Nếu lượng đường trong máu dưới 7,8 mmol/L (140 mg/dL) là bình thường. Khi kết quả trên 11,1 mmol/L (200 mg/dL) sau hai giờ có thể chẩn đoán tiểu đường. Trong trường hợp, lượng đường huyết trong khoảng từ 7,8 mmol/L đến 11,0 mmol/L (140 đến 199 mg/dL) có nghĩa là bạn bị tiền tiểu đường.
Giá trị HbA1C trước đây không được khuyến nghị để chẩn đoán bệnh tiểu đường do sự thay đổi trong xét nghiệm HbA1C. Tuy nhiên, chương trình Tiêu chuẩn hóa Glycohemoglobin Quốc gia (NGSP) đã tiêu chuẩn hóa hơn 99% xét nghiệm được sử dụng ở Hoa Kỳ theo tiêu chuẩn Thử nghiệm Biến chứng và Kiểm soát Bệnh Tiểu đường (DCCT). Một chương trình kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt đã nâng cao độ chính xác của các xét nghiệm tại Hoa Kỳ và nhiều xét nghiệm quốc tế.
Ngoài ra còn có một số lợi thế của xét nghiệm HbA1C so với xét nghiệm glucose huyết tương là xét nghiệm này thuận tiện hơn cho bệnh nhân (vì không cần chuẩn bị trước khi xét nghiệm), đồng thời có thể dự đoán các biến chứng của bệnh tiểu đường.
Bên cạnh đó, HbA1c cho biết được mối tương quan giữa mức HbA1C với nồng độ glucose trung bình. Việc chỉ số HbA1C dùng để xác định bệnh nhân bị suy giảm khả năng điều hòa glucose được lấy dữ liệu từ NHANES 2005 đến 2006. So với các điểm cắt khác, điểm cắt A1C là 5,7% (39 mmol/mol) có độ nhạy tốt nhất (39%) và độ đặc hiệu (91%) để xác định các trường hợp có tình trạng suy giảm đường huyết lúc đói (Đường huyết lúc đói ≥100 mg/dL (5,6 mmol/L)).
Nếu HbA1C không có sẵn hoặc kết quả không phù hợp (ví dụ: Do tốc độ luân chuyển hồng cầu nhanh ở bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu), có thể dùng xét nghiệm glucose (Đường huyết lúc đói, xét nghiệm dung nạp glucose đường uống trong hai giờ) để chẩn đoán.
Số người mắc bệnh tiểu đường đã tăng từ 108 triệu năm 1980 lên 422 triệu vào năm 2014. Tỷ lệ mắc bệnh này tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình so với các nước có thu nhập cao.
Bệnh tiểu đường là một căn bệnh xảy ra khi lượng đường (glucose) trong máu của bạn quá cao. Glucose là nguồn năng lượng chính của cơ thể và cơ thể có thể tạo ra glucose, nhưng phần lớn lượng glucose đến từ thực phẩm.
Thông thường, tuyến tụy bài tiết insulin giúp glucose đi vào tế bào, tuy nhiên, ở bệnh nhân đái tháo đường, cơ thể không sản xuất đủ insulin hoặc không sử dụng insulin đúng cách dẫn đến đường huyết tăng cao.
Các dấu hiệu phổ biến của bệnh lý đái tháo đường, bao gồm:
Đái tháo đường type 1
Đái tháo đường type 1 (trước đây gọi là đái tháo đường phụ thuộc insulin) là tình trạng rối loạn tự miễn khiến tuyến tụy ngừng sản xuất insulin, đây là hormone thiết yếu trong việc điều hòa đường huyết. Do đó, người bệnh bắt buộc phải sử dụng insulin ngoại sinh hằng ngày để duy trì mức glucose máu ổn định và phòng ngừa biến chứng cấp và mạn tính.
Đái tháo đường type 2
Chiếm trên 95% tổng số ca mắc, đái tháo đường type 2 là dạng phổ biến nhất của bệnh. Trước đây còn gọi là đái tháo đường không phụ thuộc insulin, bệnh thường khởi phát ở người trưởng thành, đặc biệt là những người có lối sống ít vận động, thừa cân, béo phì, và chế độ ăn không lành mạnh.
Bệnh tiểu đường loại 2 ảnh hưởng đến cách cơ thể sử dụng đường (glucose) làm năng lượng. Theo thời gian, bệnh có thể gây ra tổn thương nghiêm trọng cho cơ thể, đặc biệt là dây thần kinh và mạch máu. Các yếu tố góp phần phát triển bệnh bao gồm thừa cân, lối sống tĩnh tại và chế độ ăn uống không lành mạnh.
Hiện nay, bên cạnh việc thay đổi lối sống và dùng thuốc uống thông thường, một lựa chọn điều trị được nhiều chuyên gia khuyến nghị là sử dụng thuốc tiêm Ozempic® (semaglutide). Đây là thuốc thuộc nhóm đồng vận thụ thể GLP-1, có tác dụng kiểm soát đường huyết hiệu quả, đồng thời hỗ trợ giảm cân và làm chậm tiến triển biến chứng tim mạch, thận. Ozempic® đặc biệt phù hợp cho người trưởng thành mắc đái tháo đường type 2 chưa kiểm soát tốt dù đã điều chỉnh chế độ ăn uống và luyện tập. Việc sử dụng thuốc cần có chỉ định và theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa.
Đái tháo đường thai kỳ
Bệnh lý đái tháo đường thai kỳ là tình trạng đường huyết cao hơn so với giá trị đường huyết ở mức bình thường nhưng thấp hơn mức được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ và không có bằng chứng về đái tháo đường type 1, type 2 trước đó. Nếu phụ nữ có thai 3 tháng đầu được phát hiện tăng glucose huyết thì dùng tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường như ở người không có thai. Đái tháo đường thai kỳ gặp ở khoảng 16% những người mang thai.
Phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ có nguy cơ cao bị biến chứng khi mang thai và khi sinh. Những phụ nữ này và có thể cả con cái của họ cũng có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 trong tương lai.
Bệnh tiểu đường thai kỳ thường được chẩn đoán bởi bác sĩ thông qua việc sàng lọc trước sinh thay vì các triệu chứng thường gặp.
Để phòng ngừa bệnh lý đái tháo đường, bạn có thể tham khảo một số phương pháp sau:
Bài viết đã cung cấp các thông tin liên quan đến câu hỏi “Phương pháp test nhanh tiểu đường có chính xác không?”. Qua bài viết, phương pháp test nhanh tiểu đường đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc và xác định nguy cơ mắc bệnh. Mặc dù, phương pháp có thể cung cấp kết quả nhanh chóng và thuận tiện, nhưng độ chính xác của phương pháp này có thể không cao như các phương pháp xét nghiệm tại cơ sở y tế. Vì vậy, đối với những người có nguy cơ cao hoặc nghi ngờ về tiểu đường, việc tham khảo ý kiến của bác sĩ và làm các xét nghiệm cần thiết là quan trọng để bảo vệ sức khỏe.
Với những người trưởng thành mắc đái tháo đường type 2 chưa kiểm soát tốt dù đã thay đổi chế độ ăn uống và luyện tập, Ozempic® (semaglutide) là một giải pháp điều trị đáng cân nhắc. Đây là thuốc tiêm 1 lần mỗi tuần thuộc nhóm đồng vận thụ thể GLP-1, giúp giảm chỉ số HbA1c, hỗ trợ giảm cân và làm chậm tiến triển các biến chứng tim mạch, thận. Việc sử dụng cần tuân thủ chỉ định và theo dõi từ bác sĩ chuyên khoa để đảm bảo hiệu quả và an toàn.
Bác sĩ Chuyên khoa 1Nguyễn Thu Hà
Từng đảm nhiệm vị trí Phó khoa Kiểm soát bệnh tật tại Trung tâm Y tế Quận 1 và sau đó là chuyên viên tại Sở Y tế tỉnh Ninh Thuận. Với hai bằng đại học Y khoa và Dược sĩ, bác sĩ có nhiều kinh nghiệm và am hiểu sâu về y học và dược phẩm.