04/12/2025
Mặc định
Lớn hơn
Theo số liệu của Hiệp hội Phòng, chống đái tháo đường thế giới, năm 2021 trên toàn cầu, cứ 10 người trưởng thành thì có hơn một người mắc bệnh đái tháo đường. Các quốc gia có trên 20% dân số trưởng thành mắc bệnh bệnh này cũng ngày càng nhiều hơn. Thống kê từ năm 2000 tới nay cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở người từ 20 đến 79 tuổi đã tăng hơn gấp ba lần và trong vòng 15 năm qua; chi phí về y tế cho bệnh đái tháo đường cũng tăng lên gấp ba lần.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 7 triệu người mắc đái tháo đường. Đáng chú ý, trong đó hơn 55% bệnh nhân đã có biến chứng, trong đó 34% là biến chứng về tim mạch; 39,5 có biến chứng về mắt và biến chứng về thần kinh; 24% biến chứng về thận. Bệnh nhân đái tháo đường bị biến chứng không chỉ làm gia tăng chi phí y tế mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống.
Đái tháo đường (còn gọi là tiểu đường) là bệnh rối loạn chuyển hóa carbohydrate (glucid), protein (protid) và lipid, đặc trưng bởi tăng glucose trong máu do giảm tương đối hoặc tuyệt đối tiết insulin, hiệu quả hoạt động insulin hoặc cả hai. Khi tăng đường huyết vượt quá ngưỡng thận sẽ xuất hiện đường niệu (glucose trong nước tiểu).
Đái tháo đường gắn liền với nguy cơ phát triển các bệnh lý thận, mắt, thần kinh, tim mạch và làm tăng nguy cơ tử vong. Bệnh đái tháo đường có thể điều trị và kiểm soát được bằng cách thay đổi lối sống, sử dụng thuốc và kiểm soát các bệnh đồng mắc để hạn chế biến chứng, đảm bảo sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
Nguyên nhân của bệnh đái tháo đường rất phức tạp. Phần lớn mọi người có thể phòng ngừa bệnh đái tháo đường bằng chế độ ăn uống lành mạnh, tăng cường hoạt động thể chất, giữ cân nặng hợp lý và có lối sống lành mạnh.
Theo cách phân loại đơn giản, đái tháo đường có 4 loại chính là: Đái tháo đường type 1, đái tháo đường type 2, đái tháo đường thai kỳ và các thể đặc biệt.
Insulin là hormone do các tế bào beta của đảo tụy sản xuất, có nhiệm vụ điều chỉnh sự chuyển hóa carbohydrate, protein và lipid bằng cách thúc đẩy hấp thụ glucose từ máu vào tế bào. Đái tháo đường type 1 là hậu quả của quá trình phá hủy tự miễn các tế bào beta của đảo tụy, dẫn đến không có hoặc có rất ít insulin. Bệnh chiếm 10 - 20% các trường hợp đái tháo đường, có thể xảy ra ở mọi độ tuổi nhưng thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Đái tháo đường type 1 có xu hướng gây nhiễm toan ceton dẫn đến hôn mê và tử vong. Đây là loại đái tháo đường do cơ chế tự miễn (95%) hoặc vô căn (5%), hiện chưa có biện pháp để phòng ngừa.
Đái tháo đường type 2 đặc trưng bởi thiếu insulin tương đối cùng với kháng insulin. Bệnh gây ra khoảng 85% trường hợp đái tháo đường, thường gặp ở người lớn trên 30 tuổi.
Có nhiều nguyên nhân gây ra đái tháo đường type 2 nhưng không có nguyên nhân chuyên biệt nào. Bệnh thường xuất hiện cùng một số bệnh khác như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu. Nguy cơ bệnh gia tăng theo độ tuổi, béo phì và ít vận động. Đây là loại đái tháo đường có thể phòng ngừa được.

Đái tháo đường thai kỳ là loại đái tháo đường được chẩn đoán ở phụ nữ mang thai trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ, mà không có bằng chứng cho thấy bị đái tháo đường trước đó.
Khoảng 1 - 2% phụ nữ mang thai giảm dung nạp glucose dẫn đến mức đái đường ở thời kỳ mang thai. Bệnh gây ra nguy cơ biến chứng trong quá trình mang thai và sinh nở. Phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ và trẻ sinh ra có nhiều nguy cơ bị đái tháo đường trong tương lai.
Các thể đặc biệt khác của đái tháo đường là:
Các triệu chứng đái tháo đường ở giai đoạn đầu có thể không xuất hiện hoặc chỉ có một vài triệu chứng không rõ ràng. Các triệu chứng xuất hiện dần theo thời gian.
Thường ở bệnh nhân đái tháo đường type 1, các triệu chứng lâm sàng xuất hiện rầm rộ với biểu hiện sút cân nhanh chóng, đái nhiều, uống nhiều. Trong khi các triệu chứng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 diễn tiến âm ỉ, ít triệu chứng, thường chỉ tình cờ phát hiện khi khám sức khỏe định kỳ hoặc nhập viện vì một lý do khác.
Các triệu chứng cảnh báo bệnh đái tháo đường là:
Cả gene và yếu tố lối sống đều đóng một vai trò nào đó gây ra đái tháo đường. Trong khi đái tháo đường type 1 chủ yếu xảy ra do cơ chế tự miễn thì nguy cơ của đái tháo đường type 2 chủ yếu là do lối sống không lành mạnh.
Một số đối tượng có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 1 là:

Những đối tượng có nguy cơ bị tiểu đường type 2 là:
Đái tháo đường tiến triển dần theo thời gian. Nếu không được kiểm soát, đái tháo đường có thể gây ra nhiều biến chứng cấp tính và mạn tính nguy hiểm.
Bệnh tiểu đường gây ra các biến chứng cấp tính:
Trong đó các biến chứng hạ đường huyết là rất thường gặp và thường không được quan tâm đúng mực và để lại hậu quả nặng nề cho người bệnh từ kinh tế đến bệnh tật thậm chí tử vong.
Bệnh tiểu đường gây ra các biến chứng mạn tính:
Đái tháo đường thai kỳ có thể gây ảnh hưởng xấu đến cả mẹ và bé. Bao gồm:
Những đối tượng có nguy cơ đái tháo đường, kể cả khi không có triệu chứng của đái tháo đường đều nên tầm soát đái tháo đường mỗi 1 - 3 năm hoặc sớm hơn nếu kết quả xét nghiệm trước đó bất thường. Với những người được chẩn đoán tiền đái tháo đường nên tầm soát ít nhất mỗi năm 1 lần. Phụ nữ mang thai nên bắt đầu kiểm tra đường huyết từ tuần 24 - 28 của thai kỳ.

Chẩn đoán đái tháo đường dựa vào 1 trong 4 xét nghiệm dưới đây:
Trước khi điều trị bệnh đái tháo đường, bệnh nhân cần được khám lâm sàng và làm một loạt xét nghiệm nhằm phát hiện các biến chứng đái tháo đường và các bệnh đồng mắc, để có kế hoạch điều trị và kiểm soát yếu tố nguy cơ.
Tùy vào tình trạng của mỗi bệnh nhân mà bác sĩ sẽ đưa ra mục tiêu điều trị khác nhau nhằm giảm các triệu chứng, kiểm soát lượng đường trong máu, giảm các biến chứng liên quan và giúp người bệnh đái tháo đường có cuộc sống bình thường.
Bệnh đái tháo đường type 1 bắt buộc phải dùng insulin để điều trị. Điều trị bệnh đái tháo đường type 2 cần bắt đầu từ chế độ ăn và rèn luyện. Trong trường hợp đường huyết vẫn cao thì phải dùng thuốc. Nếu glucose máu tăng quá cao có thể dùng thuốc phối hợp sớm. Việc điều trị bằng thuốc sẽ bắt đầu với nhóm thuốc sulfonylurea hoặc metformin tùy theo thể trọng của bệnh nhân. Đa phần bệnh nhân đái tháo đường type 2 không cần điều trị bằng insulin. Chỉ khi các phương pháp trước đó không có hiệu quả thì bắt buộc dùng insulin (tỷ lệ này là 1/3 số bệnh nhân).

Thay đổi lối sống, giảm cân ở người béo phì và duy trì cân nặng ở người không thừa cân là điều kiện thiết yếu để điều trị và kiểm soát bệnh đái tháo đường:
Bên cạnh đó người bệnh cần được:

Phần lớn các trường hợp đái tháo đường là đái tháo đường loại 2, có thể phòng ngừa được bằng một lối sống sinh hoạt lành mạnh:
Đái tháo đường là bệnh mạn tính đang gia tăng nhanh trên toàn cầu và tại Việt Nam. Theo thống kê, cứ 10 người trưởng thành thì có hơn 1 người mắc bệnh, và tỷ lệ này ngày càng trẻ hóa. Hiện Việt Nam có khoảng 7 triệu người mắc, hơn một nửa đã có biến chứng nguy hiểm như tim mạch, mắt, thận, thần kinh, làm giảm chất lượng cuộc sống và tăng chi phí điều trị.
Đái tháo đường không thể chữa khỏi nhưng có thể kiểm soát tốt bằng chế độ ăn uống lành mạnh, tập luyện thường xuyên, giữ cân nặng hợp lý và tuân thủ điều trị. Kiểm tra đường huyết định kỳ mỗi 6 tháng đến 1 năm là cách đơn giản nhất để phát hiện sớm. Ngay khi có triệu chứng như khát nước nhiều, đi tiểu nhiều, mệt mỏi, giảm cân, nhìn mờ… hãy đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Chủ động phòng ngừa và kiểm soát bệnh sẽ giúp hạn chế biến chứng và sống khỏe mạnh.
Chương trình được thực hiện dưới sự bảo trợ chuyên môn của Hội Nội Khoa Việt Nam và tài trợ bởi Công ty TNHH Novartis Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
FA-11561251