Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Thanh Hương
Mặc định
Lớn hơn
Viêm phổi ho ra máu tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời. Hiểu rõ nguyên nhân, mức độ nguy hiểm và cách điều trị sẽ giúp người bệnh chủ động chăm sóc sức khỏe hiệu quả.
Viêm phổi là bệnh lý hô hấp phổ biến nhiều người gặp phải. Nhưng khi xuất hiện triệu chứng ho ra máu, người bệnh cần hết sức cảnh giác. Ho ra máu cảnh báo nguy cơ tổn thương mô phổi, giãn mạch máu hoặc nhiễm trùng sâu. Việc chậm trễ trong điều trị có thể dẫn đến mất máu cấp, suy hô hấp... Hiểu đúng về viêm phổi ho ra máu giúp người bệnh và người thân kịp thời xử trí và hạn chế nguy cơ biến chứng nghiêm trọng.
Ho ra máu ở bệnh nhân viêm phổi có thể do tổn thương mạch máu trong nhu mô phổi. Trường hợp phổ biến nhất là do nhiễm trùng phổi nặng kéo dài, khiến vi khuẩn hoặc virus ăn mòn lớp niêm mạc và gây vỡ các mao mạch phế nang. Càng để lâu không điều trị, viêm nhiễm càng lan rộng, khiến mao mạch bị áp lực cao hơn và dễ vỡ hơn, đặc biệt trong các đợt ho mạnh.
Một số tác nhân như vi khuẩn lao, tụ cầu vàng, nấm phổi và các virus hô hấp mạnh (như cúm H1N1, adenovirus…) có thể gây tổn thương mô phổi, dẫn đến ho ra máu trong một số trường hợp. Những tác nhân này có xu hướng xâm nhập sâu vào đường thở, phá hủy cấu trúc mô phổi nhanh chóng, gây nên những đợt ho ra máu bất ngờ, khó kiểm soát.
Ngoài ra, viêm phổi ho ra máu cũng có thể là hậu quả của các bệnh lý mạn tính tiềm ẩn như viêm nhiễm nặng, giãn phế quản, ung thư phổi, rối loạn đông máu hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính bội nhiễm. Khi mắc các bệnh này, cấu trúc phổi đã bị biến đổi, mao mạch trở nên mỏng và yếu, dễ vỡ.
Khi bị viêm phổi kèm theo ho ra máu, người bệnh thường có thêm các dấu hiệu như sốt, đau tức ngực, khó thở và ho có đờm lẫn máu. Kết quả chụp X-quang phổi sẽ cho thấy vùng phổi bị viêm. Máu ho ra thường có màu đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, lượng máu có thể ít hoặc nhiều tùy mức độ tổn thương phổi.
Tuy nhiên, ho ra máu không chỉ xảy ra do viêm phổi. Một số bệnh lý khác cũng có biểu hiện tương tự:
Để xác định chính xác nguyên nhân ho ra máu, phân biệt viêm phổi ho ra máu với các bệnh lý khác, bác sĩ cần kết hợp đánh giá triệu chứng toàn thân, khai thác tiền sử, xét nghiệm cận lâm sàng như X-quang, CT scan, xét nghiệm máu. Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ chỉ định sinh thiết hoặc nội soi phế quản.
Trong số các biến chứng hô hấp, viêm phổi ho ra máu được xếp vào nhóm nguy cơ cao bởi khả năng đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Tình trạng mất máu cấp do vỡ mao mạch hoặc tổn thương mạch máu lớn trong phổi có thể khiến bệnh nhân rơi vào trạng thái thiếu máu nặng, tụt huyết áp, chóng mặt, thậm chí sốc. Máu chảy ồ ạt vào đường thở có thể gây tắc nghẽn phế quản bởi cục máu đông, khiến oxy không thể vào phổi, làm tăng nhanh nguy cơ suy hô hấp cấp.
Trong một số trường hợp, viêm phổi ho ra máu có thể dẫn đến nhiễm trùng lan rộng, như nhiễm trùng huyết hoặc viêm màng phổi, nếu không được điều trị kịp thời. Nếu viêm phổi kèm ho ra máu kéo dài, mô phổi viêm nhiễm không được phục hồi hoàn toàn có thể bị tổn thương vĩnh viễn, dẫn đến xơ hóa phổi. Di chứng này khiến người bệnh suy giảm chức năng hô hấp lâu dài, thường xuyên mệt mỏi, khó thở, giảm khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống suy giảm rõ rệt.
Cách điều trị viêm phổi ho ra máu cần tập trung vào xử lý nguyên nhân gây bệnh, kiểm soát tình trạng ho ra máu và hỗ trợ hồi phục chức năng phổi.
Khi bệnh nhân nhập viện có biểu hiện ho ra máu, bác sĩ sẽ đánh giá mức độ chảy máu và tình trạng hô hấp, tuần hoàn. Trường hợp nhẹ, bệnh nhân sẽ được dùng thuốc cầm máu đường tiêm như acid tranexamic, truyền dịch tĩnh mạch để ổn định huyết động. Việc bổ sung oxy qua cannula hoặc mask nếu bệnh nhân có dấu hiệu thiếu oxy cũng rất cần thiết.
Bệnh nhân cũng sẽ được chỉ định sử dụng kháng sinh phổ rộng ngay từ đầu để kiểm soát viêm nhiễm và ngăn chặn sự lan rộng của ổ viêm. Việc lựa chọn loại thuốc kháng sinh cụ thể sẽ dựa trên kết quả kháng sinh đồ nhằm đảm bảo hiệu quả điều trị tối ưu. Trong nhiều trường hợp, bác sĩ có thể sử dụng kháng sinh phối hợp thuộc nhóm beta-lactam (amoxicillin kết hợp với acid clavulanic). Phối hợp này có khả năng ức chế vi khuẩn sinh beta-lactamase và mở rộng phổ tác dụng trên các chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến trong viêm phổi.
Việc sử dụng kháng sinh cần tuân thủ nghiêm ngặt chỉ định của bác sĩ, đúng liều, đúng thời gian. Nếu người bệnh tự ý dùng hoặc ngưng thuốc sớm có thể làm tăng nguy cơ kháng thuốc, tái phát và biến chứng nặng hơn.
Với trường hợp máu chảy ồ ạt, không đáp ứng với điều trị nội khoa hoặc có nguy cơ tắc nghẽn đường thở do cục máu đông, bác sĩ có thể chỉ định nội soi phế quản. Qua nội soi, bác sĩ sẽ hút máu, kẹp cầm máu hoặc tiêm thuốc co mạch tại chỗ. Trong một số tình huống nghiêm trọng, các can thiệp như thuyên tắc động mạch phế quản (BAE) hoặc phẫu thuật cắt bỏ phần phổi tổn thương có thể được xem xét.
Trong quá trình điều trị viêm phổi ho ra máu, cần theo dõi sát các dấu hiệu sinh tồn như mạch, huyết áp và nồng độ oxy trong máu. Việc sử dụng thuốc giảm ho trong trường hợp ho ra máu cần được cân nhắc kỹ lưỡng và chỉ nên thực hiện dưới sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Đối với những trường hợp có kèm theo hen suyễn hoặc co thắt phế quản, thuốc giãn phế quản sẽ được chỉ định.
Sau khi kiểm soát được tình trạng cấp tính, bệnh nhân cần được làm các xét nghiệm tìm nguyên nhân nền. Việc điều trị triệt để nguyên nhân gây viêm phổi là điều kiện bắt buộc để tránh tái phát ho ra máu trong tương lai.
Ho ra máu trong viêm phổi có thể là dấu hiệu của tổn thương phổi hoặc các bệnh lý nền khác. Do đó, tình trạng này cần được đánh giá và điều trị kịp thời. Khi có triệu chứng ho ra máu, hãy chủ động khám chuyên khoa hô hấp để được chẩn đoán và điều trị bệnh kịp thời.
Dược sĩ Đại họcNguyễn Vũ Kiều Ngân
Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.