Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Giãn phế quản là căn bệnh dễ dẫn đến nguy cơ người bệnh bị biến chứng và tử vong rất cao. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể được khắc phục bằng các biện pháp điều trị giãn phế quản khác nhau.
Vậy cách chẩn đoán và điều trị giãn phế quản thế nào? Để được giải đáp về vấn đề này, bạn hãy tham khảo nội dung dưới bài viết sau.
Giãn phế quản chính là tình trạng một hoặc nhiều phế quản bị giãn thường xuyên, kèm theo đó là sự phá hủy của cấu trúc ở thành phế quản và gây ra các triệu chứng như ho, xuất hiện đờm và nhiễm trùng đường hô hấp. Thông thường, các phế quản thường giãn thành ổ không hồi phục và có thể kết hợp với những bệnh lý khác. Giãn phế quản được chia ra làm các thể như giãn phế quản hình trụ, giãn phế quản hình túi, giãn phế quản hình tràng hạt.
Căn bệnh giãn phế quản có thể xảy ra do yếu tố di truyền, bẩm sinh hoặc có thể hình thành ổ và chỉ giới hạn ở 1 phần hoặc 1 thùy phổi. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, bệnh có thể lan tới nhiều thùy ở một hoặc hai bên của phổi.
Muốn chẩn đoán xác định được giãn phế quản, cần phải dựa vào các triệu chứng cận lâm sàng và lâm sàng của người bệnh. Đối với lâm sàng, bệnh nhân sẽ xuất hiện triệu chứng cơ năng, thực thể và các triệu chứng cận lâm sàng.
Triệu chứng cơ năng:
Ho khạc đờm kéo dài: Theo đó, người bệnh có thể bị ho ra đờm mủ vàng hoặc xanh, có thể lẫn số lượng máu ít hoặc nhiều. Đờm nếu như được lắng sẽ được phân thành 3 lớp gồm có: Lớp bọt ở bên trên, lớp nhầy mủ ở giữa và lớp mủ đục ở dưới cùng.
Ho ra máu: Ở một số trường hợp, bệnh nhân sẽ xuất hiện triệu chứng ho ra máu xuất hiện ở nhiều năm. Theo đó, mức độ ho ra máu có thể nhiều hoặc ít. Nếu như lượng máu lớn hơn 500 ml/ ngày có thể kèm theo triệu chứng của suy hô hấp cấp.
Khó thở: Khó thở là triệu chứng xuất hiện khá muộn. Bệnh nhân có thể bị thâm tím môi và phần đầu chi là do biến chứng của suy hô hấp bởi tổn thương lan tỏa ra hai bên phổi.
Sốt: Sốt thường xuất hiện sau khi hệ hô hấp bị nhiễm khuẩn. Khi bị sốt, màu sắc của đờm có thể thay đổi.
Đau ngực: Đau ngực chính là biểu hiện do nhiễm khuẩn gần màng phổi hoặc túi phế quản bị giãn căng.
Triệu chứng thực thể:
Phổi có tiếng ran ẩm, ran nổ là chủ yếu. Ran ngáy, ran rít thường chỉ nghe thấy ở trong các đợt cấp. Đây có thể là hội chứng đông đặc co rút khi phổi bị xẹp.
Một số triệu chứng của tâm phế mạn: Gan to, phù chân, tĩnh mạch cổ nổi…
Triệu chứng cận lâm sàng:
Chụp phim X-quang phổi: Có thể thấy những hình ảnh của giãn phế quản tạo thành các đường song song, phế quản bị nhỏ lại, thể tích thùy phổi co giãn…
Chụp cắt lớp vi tính (CT scanner) độ phân giải cao: Đây là xét nghiệm giúp chẩn đoán giãn phế quản với các triệu chứng như đường kính phế quản lớn hơn so với động mạch đi kèm, phế quản không có đường kinh nhỏ giống như quy định…
Thông thường, chẩn đoán phân biệt thường được áp dụng với các bệnh lý như lao phổi, áp xe phổi, kén khí ở phổi bị bội nhiễm.
Để điều trị giãn phế quản, bệnh nhân có thể sử dụng các loại thuốc kháng sinh. Những loại thuốc kháng sinh được lựa chọn có thể sử dụng cho đường uống hoặc tiêm tùy thuộc vào mức độ nặng của người bệnh. Theo đó, thuốc giãn phế quản có bội nhiễm dành cho bệnh nhân thường là dòng kháng sinh thuộc nhóm Cephalosporin thế hệ 2 và kết hợp với kháng sinh thuộc nhóm Aminoglycosid.
Sự thay đổi kháng sinh có thể dựa vào đáp ứng lâm sàng và kết quả của kháng sinh đồ. Theo đó, một số dòng kháng sinh có thể dùng để thay thế đó là Penicillin. Trong trường hợp nếu như nghi ngờ vi khuẩn tiết ra Beta-lactamase thì bệnh nhân hãy thay thế Penicillin G bằng Ampicillin- Sulbactam hoặc Amoxicillin + Acid Clavulanic.
Thông thường, thời gian để dùng kháng sinh thường kéo dài từ 1 đến 2 tuần nhưng đối với trường hợp bị giãn phế quản với mức độ nặng, vi khuẩn bị kháng thuốc thì thời gian dùng thuốc sẽ lâu hơn.
Điều trị co thắt phế quản thường được tiến hành khi bệnh nhân bị khó thở, phổi ran ngáy hoặc ran rít. Theo đó, loại thuốc có thể được dùng đó là thuốc kháng Cholinergic, thuốc cường Beta - 2.
Nếu người bệnh bị ho ra máu với lượng ít thì có thể ăn lỏng, nằm nghỉ và sử dụng thuốc giảm ho. Nếu ho ra máu với lượng trung bình, bệnh nhân có thể áp dụng chế độ chăm sóc như trên kết hợp dùng Morphin và Transamin.
Nếu bệnh nhân ho ra máu với một lượng nhiều và nguy kịch thì nên sử dụng thuốc morphin, các dòng thuốc co mạch kết hợp với truyền dịch. Ở các trường hợp xuất hiện máu đông gây bít tắc phế quản, bệnh nhân cần phải hút đàm máu, mở khí quản và đặt nội khí quản. Tất cả những trường hợp bị ho ra máu với mức độ từ trung bình trở lên cần phải dùng thuốc kháng sinh để phòng ngừa chứng nhiễm khuẩn.
Trên đây là cách chẩn đoán cũng như điều trị giãn phế quản. Hy vọng với nguồn thông tin hữu ích này, bạn sẽ biết cách khắc phục được tình trạng bệnh lý một cách hiệu quả.
Lê Hồng
Nguồn tham khảo: Tổng hợp
Dược sĩ Đại họcNguyễn Thị Hồng Nhung
Tốt nghiệp đại học Khoa Dược. Có kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực Dược phẩm, tư vấn thuốc và thực phẩm chức năng. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.