Hoàn thành chương trình Thạc sĩ Y học cổ truyền tại Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam. Có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực Cơ - Xương - Khớp và lĩnh vực Xét nghiệm.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Thạc sĩ - Bác sĩTrần Thị Mỹ Linh
Hoàn thành chương trình Thạc sĩ Y học cổ truyền tại Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam. Có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực Cơ - Xương - Khớp và lĩnh vực Xét nghiệm.
Bướu giáp nhân thùy phải là tình trạng tuyến giáp phì đại và hình thành khối u hoặc nốt phình to nằm ở thùy phải của tuyến giáp. Đây là 1 bệnh lý tuyến giáp phổ biến và thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Bướu giáp nhân thùy phải là bệnh lý có thể điều trị được tuy nhiên cần được thăm khám và điều trị sớm để ngăn ngừa biến chứng xảy ra.
Bướu giáp nhân thùy phải được định nghĩa là sự phì đại bất thường của tuyến giáp. Nó là sự hiện diện nốt phình to nằm ở thùy phải tuyến giáp. Tỷ lệ mắc bệnh bướu giáp nhân thùy phải thay đổi tùy theo vị trí và lượng iốt sử dụng trong dân số. Ở những khu vực thiếu iốt, tỷ lệ người mắc bướu giáp này thường rất cao. Đây là 1 bệnh lý tuyến giáp phổ biến và thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới.
Tuyến giáp là một cơ quan có hình con bướm, gồm có hai thùy trái và phải, được nối với nhau ở eo giáp. Nó nặng 25 gram ở người trưởng thành, với mỗi thùy dài khoảng 5 cm, rộng 3 cm và dày 2 cm. Tuyến này ở phụ nữ thường lớn hơn nam giới và tăng kích thước khi mang thai.
Tuyến giáp tiết ra ba loại hormone: Hai loại hormone tuyến giáp là Triiodothyronine (T3) và Thyroxine (T4) và một loại hormone peptide là Calcitonin. Các hormone tuyến giáp ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi chất, tổng hợp protein và sự tăng trưởng và phát triển ở con người. Calcitonin đóng vai trò cân bằng nồng độ canxi trong cơ thể. Tuyến giáp là tuyến nội tiết quan trọng nên có có bất kỳ rối loạn nào tại tuyến giáp sẽ gây ra rối loạn công năng của toàn bộ cơ thể.
Bướu giáp nhân thùy phải có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, bao gồm thiếu iốt, bệnh tự miễn dịch, nhiễm trùng, viêm, và bệnh thâm nhiễm như sarcoidosis và amyloidosis. Đôi khi không tìm được nguyên nhân, tình trạng này gọi là "bướu cổ đơn thuần".
Dấu hiệu rõ ràng nhất của bướu giáp nhân thùy phải là khối u ở cổ. Bướu có thể có kích thước khác nhau từ rất nhỏ khó phát hiện ra đến cực kỳ lớn. Mặc dù một số người bị bướu giáp không gặp bất kỳ triệu chứng nào, nhưng trong nhiều trường hợp có thể gây ra các triệu chứng như sau:
Bướu giáp nhân thùy phải cũng có thể xảy ra cùng với bệnh cường giáp (tuyến giáp hoạt động quá mức) hoặc suy giáp (tuyến giáp hoạt động kém). Những tình trạng này có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau cần gặp bác sĩ để có phương pháp điều trị phù hợp. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh suy giáp bao gồm mệt mỏi, tăng cân, không chịu được lạnh, da khô, tóc khô, táo bón, giảm tập trung và giảm trí nhớ. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh cường giáp bao gồm sụt cân không rõ nguyên nhân, hồi hộp, đánh trống ngực, đổ mồ hôi nhiều, căng thẳng, bồn chồn, lo lắng, tiêu chảy, khó ngủ, lồi mắt, da ấm, ẩm.
Nếu bạn có triệu chứng như nổi một khối sưng to ở cổ, cảm giác căng tức ở cổ họng,… hoặc trong gia đình có người thân mắc bệnh lý tuyến giáp thì nên gặp ngay bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây bướu giáp trên toàn thế giới là do thiếu iốt trong chế độ ăn uống. Cơ thể cần iốt để sản xuất hormone tuyến giáp. Nếu bạn không có đủ iốt trong chế độ ăn uống, tuyến giáp sẽ lớn hơn (phì đại) để cố gắng hấp thụ tất cả lượng iốt có thể.
Các nguyên nhân khác gây bướu giáp nhân thùy phải bao gồm:
Người mắc bướu giáp nhân thùy phải đang dùng thuốc hoặc đã phẫu thuật cần tuân thủ lịch tái khám định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ. Đối với những bướu lành tính không cần phẫu thuật, bệnh nhân cần được theo dõi lâu dài. Nếu kích thước bướu không tăng lên, có thể theo dõi trong khoảng thời gian từ 3 - 5 năm. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp, người bệnh cần tuân thủ nghiêm ngặt chỉ định của bác sĩ về việc sử dụng thuốc, chế độ dinh dưỡng, lối sống và tập luyện, cũng như thời gian tái khám định kỳ.
Bướu giáp nhân thùy phải thường lành tính, với hơn 95% các trường hợp không gây nguy hiểm cho sức khỏe. Tuy nhiên, khoảng 5% bướu giáp có thể ác tính, vì vậy bệnh nhân nên thực hiện sinh thiết để xác định chính xác tình trạng. Ung thư tuyến giáp được coi là một trong những loại ung thư dễ điều trị, và phương pháp phổ biến nhất là phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp. Tỷ lệ ung thư tái phát hoặc lan sang các tế bào khác rất thấp. Sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể cần sử dụng hormone tuyến giáp thay thế. Việc phát hiện sớm ung thư tuyến giáp giúp nâng cao hiệu quả điều trị, vì vậy, khi có dấu hiệu bất thường ở tuyến giáp, người bệnh nên đi khám chuyên khoa Nội tiết hoặc kiểm tra sức khỏe định kỳ để theo dõi tình trạng tuyến giáp.
Bướu giáp nhân thùy phải có nguy cơ tiến triển thành ung thư tuyến giáp, nhưng tỉ lệ này khá thấp, chỉ khoảng 5%. Phần lớn các bướu giáp nhân là lành tính và không gây nguy hiểm cho sức khỏe. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, người bệnh nên thực hiện các xét nghiệm như siêu âm hoặc sinh thiết nhằm đánh giá tính chất của bướu và loại trừ nguy cơ ung thư. Phát hiện sớm ung thư tuyến giáp giúp nâng cao hiệu quả điều trị và giảm thiểu nguy cơ biến chứng.
Mọi ca phẫu thuật đều tiềm ẩn nguy cơ biến chứng, bao gồm chảy máu, nhiễm trùng và phẫu thuật tuyến giáp cũng không phải ngoại lệ. Dù không gây nguy hiểm đến tính mạng, bệnh nhân sau phẫu thuật có thể gặp các vấn đề như khó thở, thay đổi giọng nói, hoặc hạ canxi máu. Tuy nhiên, các biến chứng này thường có thể được kiểm soát và xử lý hiệu quả.
Hầu hết các bệnh nhân có bướu giáp nhân thùy phải lành tính không cần điều trị đặc biệt. Thay vào đó, bác sĩ có thể kê đơn thuốc để ngăn chặn sự phát triển hoặc làm giảm kích thước của nhân. Tuy nhiên, bướu giáp nhân thùy phải lành tính có thể cần được phẫu thuật nếu bệnh nhân thuộc các nhóm nguy cơ như nam dưới 40 tuổi, từng xạ trị ở đầu hoặc cổ, có hạch to ở cổ, gặp khó khăn trong việc nói hoặc nuốt, hoặc có tiền sử gia đình mắc ung thư tuyến giáp.
Phương pháp cắt bỏ bằng sóng vô tuyến (RFA - Radiofrequency Ablation) thường được áp dụng cho bướu lành tính. Phương pháp này sử dụng một đầu dò để tiếp cận khối u, sau đó sử dụng dòng điện và nhiệt để làm giảm kích thước khối u.
Hỏi đáp (0 bình luận)